Wednesday, May 25, 2011

ĐẠI TÁ ROBERT LEWIS HOWARD


ĐẠI TÁ ROBERT LEWIS HOWARD
CCC – Medal of Honor

        Ngày 22 tháng Hai năm 2010, đại tá hổi hưu Robert lewis Howard (MOH) sẽ được đưa đến nơi an nghỉ trong nghỉa trang Quốc Gia Arlington. Đại tá Howard đã đưa tên tuổi mình vào trong toà nhà Danh Dự Biệt Động Quân Hoa Kỳ (Ranger Hall of Fame) năm 2005. Ông ta chính thức về hưu năm 2006 sau thời gian phục vụ 52 năm cho quốc gia.
        Đại tá Howard lớn lên ở Opilika, Alabama, gia nhập quân đội ở Montgomery với cấp bậc binh nhì năm 1956 lúc mới mười bẩy tuổi. Ông ta giải ngũ với cấp bậc đại tá, và là người được nhiều huy chương nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong khi đa số người Mỹ đều biết Audie Murphy là quân nhân đạt được nhiều huy chương nhất trong trận Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng chỉ một số rất ít người biết đại tá Howard có nhiều huy chương hơn Audie Murphy. Chỉ có 3448 người Hoa Kỳ được ân thưởng huy chương Danh Dự (Medal of Honor), và hiện tại 90 người vẫn còn sống.
        Đại tá Howard được biết là người nhận huy chương Danh Dự, nhưng ít người biết khi ông ta còn mang cấp bậc trung sĩ, trung sĩ nhất trong đơn vị Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát thuộc bộ Tư Lệnh Quân Viện (MACV), đã được đề nghị ân thưởng huy chương Danh Dự trong ba trường hợp khác nhau, trong vòng mười ba tháng trong năm 1967-1968. Hai lần đầu bị giảm xuống vì nhu cầu bảo mật của đơn vị mà ông ta đang phục vụ. Lần đầu xuống huy chương Phục Vụ Xuất Sắc (hạng nhì, Distinguished Service Cross chỉ thua huy chương Danh Dự), lần thứ hai xuống Ngôi Sao Bạc (hạng ba, Silver Star). Lần thứ ba cũng bị xuống huy chương Phục Vụ Xuất Sắc nhưng sau đó nâng lên thành huy chương Danh Dự.
        Lần được đề nghị nhận lãnh huy chương Danh Dự thứ ba, lúc đó ông ta mang cấp bậc trung sĩ nhất, trung đội phó một trung đội xung kích Hornet Force, đi cấp cứu một quân nhân Hoa Kỳ Robert Scherdin trên đất Miên ngày 30 tháng Mười Hai năm 1968.
        Đại tá Howard được thăng cấp đặc cách (rất đặc biệt) từ thượng sĩ lên trung úy năm 1969 và được ân thưởng huy chương Danh Dự do Tổng Thống Richard M. Nixon trong tòa Bạch Ốc năm 1971. Đại tá Howard còn nhận được rất nhiều huy chương đủ loại khác, kể cả tám Chiến Thương Bội Tinh.
        Đơn vị Nghiên Cứu Quan Sát (MACV-SOG) thực hiện những cuộc hành quân bí mật (được bảo mật), xâm nhập trên đất Lào, Miên và miền bắc Việt Nam. Quân nhân tình nguyện phục vụ trong đơn vị này phải thi hành những nhiệm vụ nguy hiểm nhất trong quân đội Hoa Kỳ. Đại đội thám sát chỉ có 60 người ở Kontum là đơn vị ông ta phục vụ, cũng là đơn vị nhỏ nhất trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam được ân thưởng tất cả năm huy chương Danh Dự.
        Câu chuyện về đại tá Howard được tác giả John Plaster nhắc đến trong quyển sách nổi tiếng “SOG Những trận chiến bí mật của Biệt Kích Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam”.

        CHIẾN CÔNG:
        Với lòng dũng cảm, hy sinh cả mạng sống của mình để phục vụ. Trung úy Howard (lúc đó là trung sĩ nhất) đã chứng tỏ khả năng, lòng quả cảm khi đảm nhiệm chức vụ trung đội phó một trung đội (xung kích, Hornet Force), gồm những quân nhân Việt-Mỹ (đa số là người Thượng) trong một nhiệm vụ cấp cứu quân nhân Hoa Kỳ trong một khu vực do địch quân kiểm soát (thực ra trên đất Miên). Trung đội này vừa xuống trực thăng, đang di chuyển ra khỏi bãi đáp thì bị khoảng hai đại đội địch quân tấn công.
        Ngay từ phút đầu tiên, trung úy Howard đã bị thương và khẩu súng của ông ta đã bị hư hại vì lựu đạn. Trung úy Howard trông thấy người trung đội trưởng bị thương nặng và nằm kẹt trước hỏa lực của địch. Mặc dầu đã bị thương nơi chân không bước đi được và không có vũ khí, trung úy Howard vẫn bò lên trước hỏa lực của địch lôi cấp chỉ huy bị thương về vị trí phòng thủ. Trong khi đang tháo đồ trang bị, băng bó vết thương cho viên sĩ quan trung đội trưởng, một viên đạn của địch trúng vào hộp đựng đạn của ông ta. Lúc đó trung úy Howard nhận định rằng phải chỉ huy trung đội chiến đấu vì lúc đó đang rối loạn hàng ngũ bị địch tấn công bất ngờ.
        Với lòng can đảm, trung úy Howard đã tổ chức được phòng tuyến chiến đấu. Ông ta bò đến từng vị trí, động viên tinh thần binh sĩ, băng bó cho người bị thương. Sau ba tiếng rưỡi đồng hồ, trung đội (Hornet Force) được phi cơ yểm trợ, đã chống trả quyết liệt làm địch quân phải rút lui và trực thăng vào đưa trung đội về căn cứ.
        Trung Úy Howard đích thân điều động cuộc rút quân, cho đến khi tất cả mọi người đã lên trực thăng. Trung úy Howard đã chứng tỏ lòng dũng cảm, gương can đảm đối với thuộc cấp, đem vinh dự về cho quân đội.

        HIỆP SĨ KHIÊM TỐN (Đại tá Robert L. Howard 1939-2009)
        Năm 1968, đại tá Robert L. Howard, một trung sĩ nhất 30 tuổi là người khỏe mạnh nhất trong căn cứ. Với bộ ngực nở nang của người tiều phu, đốn củi, tinh thần cương quyết. Tôi là một trong số rất ít quân nhân LLĐB cùng chung đơn vị với Bob trong đại đội thám sát 60 người trên Bộ Chỉ Huy Trung (CCC). Một đơn vị Mũ Xanh LLĐB tối mật, hoạt động sau phòng tuyến của địch. Là một đơn vị thuộc Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG), chúng tôi có nhiệm vụ xâm nhập, dò thám, đột kích, ngan chặn, phá hoại hệ thống đường mòn HCM trên đất Lào và Miên.
        Howard rất nổi tiếng. Tất cả phim ảnh do tài tử John Wayne, Clint Eastwood đóng, gom lại cũng chưa đủ để so sánh với con người thật của Bob Howard. Trên giấy tờ, ông ta được ân thưởng tám Chiến Thương Bội Tinh, nhưng thật ra bị thương tất cả mười bốn lần. Sáu lần, ông ta quyết định... chưa xứng đáng để nhận huy chương. Nên nhớ rằng, mỗi lần ông ta bị thương thì mười lần ông ta xuýt chết, bạn thử tưởng tượng... chiến công của ông ta. Ông ta xứng đáng được xếp hạng những anh hùng vĩ đại của người Hoa Kỳ như: Davy Crockett, Audie Murphy...
        Cho rằng ông ta là anh hùng cũng không phải là điều “phóng đại”. Một lần, hai tên khủng bố VC lái Honda chạy ngang căn cứ ném một quả lựu đạn vào nhóm quân nhân Hoà Kỳ đang đứng (bộ chỉ huy Trung CCC trên Kontum, xây căn cứ hành quân tiền phương B-15 nằm hai bên quốc lộ 14, xe cộ thường dân có thể đi ngang qua). Trong khi mọi người nhanh chóng chạy tìn chỗ trú ẩn, Howard bình tĩnh, giựt khảu M-16 của binh sĩ đang canh gác, qùy xuống nhắm, bắn chết một tên, rồi chạy bộ đuổi theo bắn chết tên thứ hai.
        Một lần khác, Howard đang ngồi trên trực thăng với Larry White và Robert Clough bay sang Lào. Viên phi công (không ngờ) đáp xuống giữa hai chiếc trực thăng được ngụy trang rất kỹ của quân đội Bắc Việt. Địch quân cũng... không dè, rồi súng AK-47 nổ vang vào chiếc trực thăng Huey của bộ chỉ huy Trung (CCC). White bị trúng ba viên đạn rơi ra khỏi trực thăng, Howard cùng với Clough nhẩy vội ra, khai hỏa khẩu CAR-15, lôi White lên trực thăng, rồi chiếc trực thăng với đầy vết đạn AK bay khập khiễng trở về căn cứ.
        “Khi biết Bob Howard đang trên đường đến cứu, bạn rất nhiều hy vọng”, trưởng toán biệt kích SOG Lloyd O’Daniels kể lại chuyến đi cứu Joe Walker. Toán biệt kích của anh ta cùng với một trung đội xung kích Hornet bị quân đội Bắc Việt tràn ngập tại vị trí gần một xa lộ lớn trên đất Lào. Walker bị thương nặng không di chuyển được, lẩn trốn cùng với một binh sĩ người Thượng.
        Howard cùng với một chục binh sĩ Thượng từ bộ chỉ huy Trung (CCC) được trực thăng đưa vào khu vực để cứu Walker. Khu vực đơn vị SOG bị tràn ngập vẫn còn rất nhiều lính Bắc Việt, họ đợi đến tối mới xâm nhập vào khu vực. Vì trời tối, Howard phải mò mẫm từng xác chết, nghe tiếng tim vẫn còn đập, và chân dài (người Hoa Kỳ). Rồi tới đúng Walker, Howard nghe ông bạn nói khẽ “Mày... là thằng bạn dễ thương lắm”. Rồi Howard cõng Walker trở về an toàn.
        Được mời đến tòa Bạch Ốc trong ngày lễ Tưởng Niệm (Memorial Day). Sau khi Tổng Thống Nixon choàng huy chương Danh Dự vào cổ Bob Howard, Tổng Thống Nixon hỏi Howard muốn làm gì trong ngày lễ Memorial Day? Ăn trưa với Tổng Thống, thăm tòa Bạch Ốc... Hiệp Sĩ Khiêm Tốn trả lời, muốn đến thăm mộ Chiến Sĩ Vô Danh trong nghĩa trang Quốc Gia Arlington... ông ta muốn tâm sự, chia xẻ với những người đã đi trước ông ta.
(Thiếu tá John L. Plaster)

 Dallas, TX.
vđh

Friday, May 20, 2011

CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG


CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG
Dick Meadows
by Maj. John L. Plaster, USAR (Ret.)

Lời giới thiệu: Dick Meadows là một huyền thoại trong đơn vị SOG. Ông ta đã tham dự nhiều chuyến “Hành Quân Đặc Biệt”, từ Chương Trình Sao Trắng (Project White Star) bên Lào, đơn vị SOG, trận đột kích cứu tù binh Sơn Tây, đơn vị Delta, v.v... Không cần nhắc đến cấp bậc của ông ta, thượng sĩ, đại úy, thiếu tá... tất cả mọi người trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt đều biết ông ta. Meadows là Meadows.

- Tôi có “vấn đề”. Dick Meadows nói với tôi qua điện thoại. “Tôi sắp chết, John” Như tiếng sét đánh, tôi sợ mình nghe không rõ. Trước đó mười ngày, Dick Meadows đang “công tác” ở trung Mỹ (chống lại bọn đầu não ma túy), rồi tự dưng cảm thấy mệt mỏi, phải trở về Hoa Kỳ. Bác sĩ cho biết ông ta bị chứng bệnh ung thư xương, ở thời kỳ chót. Mới 64 tuổi, Dick Meadows có bề ngoài khỏe mạnh, chắc chắn và rất tự tin.
-          Được (sống) bao lâu nữa?   
-          Một tuần lễ!
        Dick Meadows nói đúng, lúc nào cũng đúng... sáu ngày sau, ông ta từ giã bạn bè, cõi đời.

MỘT CHIẾN SĨ CAN ĐẢM.
        Không một ai như Dick Meadows, ông ta sinh năm 1947 trong một gia đình nghèo khó ở tiểu bang West Virginia. Dick khai gian tuổi để được vào lính nhẩy dù năm 15 tuổi, nổi tiếng trong trận chiến Hàn Quốc, đeo lon thượng sĩ năm 20 tuổi (Thượng sĩ trẻ nhất trong quân đội Hoa Kỳ). Sau đó ông ta xin chuyển qua Lực Lượng Đặc Biệt và học hỏi rất nhanh, làm nhiều cấp chỉ huy ngạc nhiên vì trình độ học vấn của Dick chỉ tới lớp chín.
        Sau đó Dick được chọn, gửi qua Anh học hỏi trong đơn vị biệt kích lừng danh của người Anh SAS hai năm. Kết qủa người vợ của Dick, Pamela là con gái của một ông trung sĩ trong đơn vị SAS.
        Trong những năm đầu thập niên 1960, Dick được tuyển mộ bí mật, đưa sang Lào, phục vụ trong chương trình White Star. Cấp chỉ huy tuyển mộ ông ta chính là đại tá Arthur “Bull” Simon (có một thời làm chỉ huy trưởng đơn vị SOG. Ông này làm chuyện gì cũng kéo theo Dick Meadows), và toán LLĐB/HK huấn luyện sắc dân thiểu số người Kha ở bên Lào chống lại quân cộng sản Pathet Lào. Chương trình White Star trở về Hoa Kỳ khi hiệp định Genève tuyên bố  “trung lập hóa” nước Lào.
        Trong cuộc chiến Việt Nam, đơn vị SOG với những hoạt động bí mật, có những trưởng toán biệt kích ngại hạng. Chính trong đơn vị này, ngôi sao Dick Meadows sáng chói. Ông ta phục vụ hai năm, làm trưởng toán biệt kích Iowa, chỉ huy những biệt kích quân người Nùng xâm nhập sâu vào hậu phương địch trên đất Lào và miền bắc Việt Nam. Trước mỗi chuyến xâm nhập, Dick Meadows lập sa bàn mục tiêu xâm nhập, để toán biệt kích nhớ điạ hình, điạ vật khu vực thám sát. Theo lời thiếu tá Scotty Crerar, Dick Meadows làm tất cả, mình có thể quay phim sự chuẩn bị cho toán biệt kích Iowa để huấn luyện các toán biệt kích khác.
        Toán biệt kích Iowa của Meadows nổi tiếng trong đơn vị SOG về số tù binh Bắc Việt bắt được. Đại tá Jack Singlaub (sau này lên tướng) cựu chỉ huy trưởng đơn vị SOG cho biết, toán biệt kích Iowa phá kỷ lục, đem về 13 tù binh Bắc Việt. Một lần, Meadows bố trí toán biệt kích dọc theo một đường mòn để bắt sống một lính Bắc Việt, không ngờ năm tên xuất hiện. Meadows nhẩy ra giữa đường hô to “Chào qúy vị! Các bạn bây giờ là tù binh.”. Ba trong số năm người lính Bắc Việt đưa súng AK-47 lên, Meadows nổ súng bắn chết cả ba rồi bắt sống hai người còn lại. Một người cũng nổi tiếng trong đơn vị SOG, đại úy Ed Lesesne nói về Meadows “Anh ta là một tay súng thượng hạng, rất trầm tĩnh!”
        Cựu chỉ huy trưởng đơn vị SOG, Donald “Head Hunter” Blackburn, rất nổi tiếng trong trận đệ nhị thế chiến về đánh du kích, rất quý mến Dick Meadows, coi như con. Chính quyền miền bắc vẫn chối cãi không hề đưa quân vào miền nam. Năm 1966, Dick Meadows cùng toán biệt kích Iowa đem về một số hình ảnh, quân đội Bắc Việt đang di chuyển trên đường mòn HCM vào miền nam Việt Nam.
        Một chuyến xâm nhập khác, toán biệt kích Iowa quan sát lính Bắc Việt cùng với dân công đang di chuyển trên đường 110 ở bên Lào, Dick Meadows bò lên chụp nguyên cuộn phim 35mm từ máy chụp ảnh Pentax. Nhờ cuộn phim này, tướng Westmoreland có thể chứng minh cho Quốc Hội Hoa Kỳ, những hoạt động của quân đội Bắc Việt trên đất Lào.
        Vài tháng sau, Toán biệt kích Iowa khám phá được một kho chứa dụng cụ, cơ phận cho súng đại bác của quân đội Bắc Việt trên đất Lào. Các cơ phận đại bác quá nặng, không thể đem về được, nên Dick Meadows, lại chụp ảnh đem về. Đích thân chỉ huy trưởng đơn vị SOG đưa Meadows vào thuyết trình cho tướng Westmoreland, ông ta hết lời khen ngợi Dick Meadows cùng toán biệt kích Iowa. Nhờ những tấm ảnh này, bộ Quốc Phòng, Ngoại Giao Hoa Kỳ cho phép quân đội Hoa Kỳ bắn pháo binh vào vùng phi quân sự.
        Tướng Westmoreland, tư lệnh quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam rất qúy mến viên “Thượng Sĩ Trẻ”, ăn nói nhỏ nhẹ nhưng rất thành thực, thăng cấp cho Meadows một lúc ba bậc, từ thượng sĩ lên đại úy.
        Trong tháng Mười năm 1966, chỉ huy trưởng đơn vị SOG, Jack Singlaub chọn Meadows chỉ huy một toán biệt kích SOG xâm nhập miền bắc Việt Nam. Trước đó chỉ có những toán biệt kích người Việt Nam mới nhẩy dù xuống miền bắc (Oplan 34). Nhiệm vụ dành cho toán biệt kích SOG, ra miền bắc cứu phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi ngoài bắc. Hải Quân trung úy (Hải Quân Hoa Kỳ có phi cơ riêng) Deane Woods nhẩy dù xuống một vùng rừng núi khoảng giữa thành phố Vinh và Hà Nội. Sâu trong đất liền khoảng 30 dặm, và đã lẩn trốn được vài ngày.
        Toán biệt kích SOG gồm 13 người được trực thăng Hải Quân đưa từ hàng không mẫu hạm Intrepid vào khu vực tìm kiếm trung úy Woods. Toán biệt kích di chuyển đến vị trí Woods chỉ còn cách 500 thước, quân Bắc Việt đã tới trước bắt sống viên phi công Hải Quân.

CHUYẾN GIẢI CỨU TÙ BINH SƠN TÂY
        Meadows tham dự chuyến hành quân cứu tù binh Hoa Kỳ bị giam (tình nghi) ở Sơn Tây nơi miền bắc Việt Nam. Trong tháng Mười năm 1970, cả thế giới biết chuyện Hoa Kỳ tổ chức hành quân giải cứu tù binh ở Sơn Tây, cách Hà Nội 23 cây số về hướng tây, nhưng không thành công.
        Meadows không phải là cấp chỉ huy lực lượng tấn công trong trận đột kích Sơn Tây, nhưng ông ta là người huấn luyện cho đơn vị biệt kích làm nhiệm vụ này. Và khi toán quân biệt kích Hoa Kỳ được trực thăng đưa vào đến trại tù binh Sơn Tây, Dick Meadows là người nói qua loa phóng thanh “Chúng tôi là người Hoa Kỳ. Tất cả nằm xuống, không được ngóc đầu lên (để tránh đạn lạc). Chúng tôi đến cứu... Sẽ đến buồng giam các bạn trong vòng một phút”
        Nhưng trại tù binh Sơn Tây trống rỗng, các tù binh Hoa Kỳ đã được đưa đến nơi khác. Mặc dầu tin tình báo không chính xác, nhưng chuyện giải cứu làm các tù binh Hoa Kỳ lên tinh thần, biết mình không bị bỏ rơi trong quên lãng. Chuyến giải cứu tù binh Sơn Tây được người Do Thái áp dụng, sáu năm sau trong chuyến giải cứu con tin ở Entebbe, Uganda.

NGƯỜI CỦA TA Ở TEHRAN
        Dick Meadows giải ngũ năm 1977, sau 30 năm phục vụ trong quân đội. Nhưng cũng không được lâu, khi đại tá Charlie “Chargin” Beckwith mời Meadows tham gia như một thường dân, huấn luyện cho đơn vị Delta, mới thành lập của ông ta. Trong tình bạn, tình chiến hữu, Meadows chỉ dẫn cho các quân nhân Delta, trở thành một đơn vị chống khủng bố hữu hiệu.
        Hết nhiệm vụ huấn luyện, Meadows lại về hưu năm 1980, chỉ được vài tháng rồi quay trở lại tiếp tay với đơn vị Delta trong chuyến giải cứu con tin bị giam ở Tehran, nước Iran. Không được tin tức từ văn phòng cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA ở Tehran, đơn vị Delta không có đủ tin tức tình báo để soạn thảo chi tiết kế hoạch cứu con tin.
        Lúc ban đầu, cơ quan CIA không đồng ý để cho Meadows vào “nằm vùng” trước trong Tehran. Họ cho rằng ông ta “tài tử, không che dấu được, không có hậu thuẫn và không được huấn luyện về ngành tình báo”. Meadows trả lời CIA, sẽ vào Tehran một mình, không cần sự trợ giúp của cơ quan CIA. Trước sự cương quyết, giám đốc cơ quan CIA Stansfield Turner đồng ý, làm cho Meadows một giấy thông hành (passport) giả mang quốc tịch Ireland. Người Iran không phân biệt được giọng Ireland và West Virginia, để cho ông “Richard Keith” một giám đốc sản xuất xe Âu châu qua cửa khẩu dễ dàng.
        Meadows dò thám tòa đại sứ Hoa Kỳ, đường xâm nhập vào thành phố cho đơn vị Delta, để ý những chỗ “thù nghịch”. Đề phòng tai mắt của Iran nơi nhà kho, cơ quan CIA và nhóm “tiền phương” LLĐB đã thuê sẵn để chứa xe cộ di chuyển, “đồ nghề” cần thiết cho đơn vị Delta, khi đã lọt vào thành phố.
        Trong kế hoạch giải cứu con tin ở Iran, Meadows sẽ hướng dẫn và đi theo toán biệt kích Delta tấn công vào nơi giam giữ con tin... Nhưng đơn vị Delta sẽ không bao giờ đến được Tehran. Nằm sâu trong sa mạc Iran, kế hoạch giải cứu con tin phải hủy bỏ, khi hai trực thăng chở đơn vị Delta đụng vào nhau (chết thêm một mớ), phải bỏ lại xác một trực thăng, cùng xác chết phi hành đoàn, biệt kích Delta trong sa mạc. Trong lúc vội vã rút lui trở ra hàng không mẫu hạm, đơn vị Delta bỏ lại hồ sơ, tài liệu, lòi ra tung tích Dick Meadows và nhà kho nơi tập trung toán biệt kích Delta, nhưng may mắn, ông ta bay thoát qua Turkey rồi trở về Hoa Kỳ.
        Dick Meadows còn dính líu đến vụ giải cứu hai nhân viên làm việc cho tỷ phú H. Ross Perot (hãng EDS) bị giam trong nhà tù Iran năm 1979. Chuyến này do cựu “xếp” của Meadows Arthur “Bull” Simon chỉ huy, và đã được Ken Follett viết sách năm 1983 và đã được quay phim “On Wings of Eagles”. Nhiều người được biết đến Dick Meadows khi hình ảnh ông ta xuất hiện trên trang bìa tuần báo Newsweek đầu thập niên 1980.

CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG
        Mặc dầu thích câu loại cá bass, Dick Meadows vẫn không thể “về hưu”. Khoảng giữa năm 1980, ông ta tình nguyện trông coi một phi trường tiếp tế xăng trong vùng biển Caribbean nhằm mục đích tóm cổ những tay chuyển vận ma túy.
        Sau đó, Dick Meadows làm việc một thời gian ở Peru, giúp đỡ hững chủ đồn điền, nhà buôn chống lại sự khủng bố chống lại nhóm Sendero Luminosa. Nhóm này nhiều lần muốn thanh toán ông ta, nhưng không bao giờ thành công.
        Dick Meadows đã nói với tôi hai lần, rất tức tối vì không đủ khả năng, phương tiện trong trận “Chiến Chống Ma Túy” và nghi ngờ sự quyết tâm của chính quyền Hoa Kỳ. Mặc dầu không nằm trong danh sách trả lương của chính quyền Hoa Kỳ, ông vẫn làm việc hết khả năng, nhiều lần đứng làm trung gian, thương lượng để trả tự do cho công dân Hoa Kỳ bị bắt cóc ở nam Mỹ.

HUY CHƯƠNG DANH DỰ CHO CÔNG DÂN HOA KỲ  
        “Với lòng can đảm, nêu cao tinh thần trách nhiệm, Thiếu Tá (giải ngũ) Richard Meadows đã đóng góp rất nhiều cho nền an ninh quốc gia. Sau khi tình nguyện vào quân đội ở tuổi 15, ông ta trở thành một Thượng Sĩ trẻ tuổi nhất trong quân đội Hoa Kỳ trong trận chiến Hàn Quốc. Sự phục vụ xuất sắc của ông ta trên cương vị một quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt, một công dân bao gồm những hoạt động đằng sau phòng tuyến địch trong trận chiến Việt Nam và đã được ân thưởng xứng đáng. Tham dự chuyến giải cứu tù binh Hoa Kỳ ở Sơn Tây, gần thủ đô Hà Nội. Xâm nhập vào Tehran trong hành quân Desert One giải cứu con tin bị bắt giữ ở Iran. Là một người quan trọng trong việc thành lập, xây dựng đơn vị Delta. Ông ta vẫn tiếp tục nghe theo tiếng gọi của quê hương, tham gia những hoạt động nguy hiểm, và rất ít người hy sinh như thế cho quốc gia, cho người dân trong nước.”
Tổng Thống William J. Clinton (26/7/1995)
        Trong cuộc đời binh nghiệp, Dick Meadows chỉ thiếu huy chương Danh Dự (Medal of Honor) cao qúy nhất dành cho người Hoa Kỳ. Đại tá Elliot “Bud” Sydnor, chỉ huy trận đột kích Sơn Tây phát biểu “Nếu những cuộc hành quân Dick Meadows tham dự không phải bảo mật, anh ta sẽ là người nhiều huy chương nhất trong quân đội Hoa Kỳ”.
        Khi tỷ phú H. Ross Perot được biết tin Dick Meadows sắp chết, ông ta gọi điện thoại cho Tổng Thống Clinton, nói rằng Dick Meadows xứng đáng được ân thưởng huy chương Công dân Danh Dự. Và chiếc huy chương đã được trao cho gia đình Dick Meadows, do tướng Wayne Downing, tư lệnh Hành Quân Đặc Biệt, đại diện Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng “Ông ta là một vị anh hùng thầm lặng của người Hoa Kỳ”.
 Dallas, TX.
Vđh


A SPECIAL WARRIOR'S LAST PATROL:
Dick Meadows
by Maj. John L. Plaster, USAR (Ret.)

It was perfect timing. Dick Meadows phoned not a dozen days after I'd finished two year's work on a history of SOG. At last we could start his twice-postponed biography.
And what a tale to tell: Project White Star, SOG, the Son Tay Raid, Delta Force, the drug wars - - Meadows had lived one adventure after another, dodging bullets on three continents for 45 years. In our caricature world of hoo-yah Rambos, Dick was genuine and unassuming, the boy next door with a CAR-15, America's Otto Skorzeny or David Sterling. No matter his rank -- master sergeant, captain, major -- all of us in Special Forces knew him as Dick Meadows, a man who didn't need a rank to be who he was; Meadows was Meadows.
It would be a fabulous book.
"But I have a problem," Meadows announced, his soft voice hinting nothing special. "I'm dying, John."
A brick couldn't have hit so hard. Ten days earlier he'd been in Central America when fatigue so overwhelmed him that he came home. His doctor diagnosed leukemia, in its final, most virulent stage. That simply couldn't be. Though 64, Meadows looked two decades younger, fit, trim and vigorous.
"How long do you have?" I asked."
"A week."
True to his word, six days later Dick Meadows died.
A Self-Made Soldier There was no one like Dick Meadows. He lived the life on which books are written -- in the plural. Born in a dirt-floor West Virginia moonshiner's cabin, in 1947 Meadows lied his age to become a 15-year-old paratrooper, then so distinguished himself in Korea that he was that war's youngest master sergeant, at age 20. The quick-learning but largely self-taught Green Beret acquired such a descriptive vocabulary and sophisticated style that it surprised people to learn he had only a ninth-grade education.
The British SAS, with whom Meadows served two years on exchange in the late fifties, thought so much of him that they entrusted him with serious responsibilities. In fact, an SAS sergeant major entrusted him with his daughter, Pamela, for a bride.
In the early sixties he deployed covertly with other Green Berets to Laos where, led by Colonel Arthur 'Bull' Simons, they trained KhaTribesmento fight the Pathet Lao and NVA. These Project White Star men were withdrawn when Laos was declared 'neutral' at a Geneva Conference.
SOG Team Leader Extraordinaire It was in SOG -- the top secret Studies and Observations Group, theVietnam War's covert special operations unit -- that Meadows really shined. He spent two years in SOG, all of it running missions deep behind enemy lines in Laos and North Vietnam while leading Chinese Nung mercenaries on Recon Team Iowa. Before each operation, Meadows built a terrain map in the dirt, then had his whole team memorize the prominent features. "Meadows did everything meticulously, everything was rehearsed," then-Major Scotty Crerar recalls. "You could have taken a film of [his] mission preparation and used it as a training film."
Like a martial arts master certain of his abilities, Meadows possessed an unegotistical confidence -- fearless but not oblivious to danger. He was a practitioner of the tactically sublime, able to assess a situation in a glance, weigh his alternatives and act in a flash.
"Just back from another successful covert mission along the Ho Chi Minh Trail in Laos, Meadows (back row, third from left), poses with Recon Team Iowa. Much of Meadows' reputation evolved from capturing prisoners, at which according to then- Colonel Jack Singlaub, Meadows proved SOG's most prolific prisoner snatcher, bringing back 13 NVA from Laos. He once arrayed Recon Team Iowa beside a trail when instead of the desired one man, five NVA strolled up and stopped right there for lunch. Meadows stepped out and announced, "Good morning, gentlemen. You are now POWs." Despite his warning, "No, no, no," three went for their AKs, so, 'yes, yes, yes,' Meadows shot them faster than you read this. The other two proved surprisingly compliant. "Meadows is cunning," thought one of SOG's most accomplished combat leaders, then-Captain Ed Lesesne, who adds with a touch of awe, "he's a killing machine, and I mean to tell you -- Meadows is a calculating, cool guy."
Chief SOG Donald 'Headhunter' Blackburn, a highly decorated WWII guerrilla leader, so admired Meadows that he thought of him as a son. Battlefield Commission Meadows had a knack for making history, as in 1966 when he proved North Vietnamese Prime Minister Pham Van Dong a liar. Pham had been insisting not a single North Vietnamese soldier had been sent to South Vietnam, telling U.S. anti-war activist Tom Hayden such allegations were, "a myth fabricated by the U.S. imperialists to justify their war of aggression." Pham's deceit seemed by its magnitude unbreachable. Was this a war of conquest from the North, or a popular revolt by South Vietnam's peasantry?
General William Westmoreland couldn't offer Congressional doubters a 'smoking gun.' Then Meadows helped out. Laying beside Laotian Highway 110, his RT Iowa was watching North Vietnamese soldiers and porters pass by. Meadows pulled from his pocket a Pen-EE camera, crawled forward and snapped a whole roll of photos.
Then he and his assistant team leader, Chuck Kearns, crawled back beyond enemy earshot and Meadows decided on an even more dangerous gambit; in Kearns' rucksack was an 8mm motion picture camera, which he'd brought along on a lark. Meadows took it, crept perilously close to the trail and began rolling, shooting a few frames of each NVA that came into his viewfinder, footage of such perfect exposure that it came out like mugshots. For an hour Meadows laid there and recorded nearly a whole battalion -- hundreds of heavily armed North Vietnamese -- marching alongside porters toting loads of military supplies.
Chief SOG had Meadows personally brief his findings to Gen. Westmoreland, who couldn't help but praise Meadows and SOG. Meadows' film was rushed to Washington and presented in a closed-door briefing of select Congressmen who nodded convinced that Hanoi was lying.
A few months later Meadows penetrated an NVA Laotian cache which contained Russian-made artillery pieces. The Howitzers were too big to carry back, even for Meadows, so he photographed them and brought out their sights.
Again Chief SOG had Meadows brief Westmoreland, who almost hugged the intense Green Beret master sergeant when he presented a souvenir: A Soviet-made artillery sight. Westmoreland noted, it was exactly such evidence "which finally prompted the State Department to relax its restrictions on firing into the DMZ."
"Shortly after receiving his battlefield direct commission from Gen. (Photo courtesy of Jim Storter) Deeply impressed by the sincere, quiet-spoken Green Beret, Westmoreland gave Meadows a direct commission to captain -- the Vietnam War's first battlefield commission -- and cited him by name in his memoires.
In October, 1966, Chief SOG Jack Singlaub chose Meadows to lead SOG's first American-led operation into the heartland of North Vietnam, to rescue a downed U.S. Navy fighter pilot. Lieutenant Deane Woods had parachuted onto a heavily jungled ridgeline halfway between Vinh and Hanoi, 30 miles inland, where for several days he'd been evading NVA searchers.
Launching by Navy helicopter off the carrier Intrepid, Meadows took in a 13-man team that made it within 500 yards of Lt. Woods when the NVA captured him.
"A cautious soldier would have taken his men to the nearest extraction point and departed enemy territory," Chief SOG Singlaub says. "But Meadows was not overly cautious." Coming upon a major trail, Meadows set up an ambush to capture a prisoner. Momentarily, an NVA officer and three soldiers walked up, alert, still searching for Woods, apparently unaware he'd been captured.
To the NVA soldiers' astonishment Meadows stepped from the dense foliage, leveled his AK-47, and called a friendly, "Good morning." As one,all four NVA went for their guns, but Meadows shot first, killing them all in blur. While his men searched the bodies, Meadows radioed for an exfil and soon they were on their way out.
After the war, Meadows met Lt. Woods, who'd spent six years as a POW, and presented him with the Tokarev pistol he'd taken off the dead NVA officer.
POW Rescue at Son Tay
Meadows' best known mission had to be the Son Tay Raid, the November, 1970 attempted rescue of American POWs from a prison 23 miles west of Hanoi.
Meadows didn't merely lead the assault element, but served as the primary trainer of the entire raiding force, teaching them everything he'd learned about close quarters combat and small unit tactics. When the raiders landed at Son Tay, it was Meadows' voice on the megaphone that called, "We're Americans. Keep your heads down. This is a rescue.... We'll be in your cells in a minute."
But Son Tay was empty, its POWs moved while the camp was being refurbished. Though an intelligence failure, the raid boosted POW morale and compelled Hanoi, at last, to cease mistreating American prisoners. Son Tay inspired the Israeli rescue mission six years later at Entebbe, right down to the megaphone instructions to captives.
Our Man in Tehran
Dick Meadows retired with 30 years service in 1977, but he couldn't stay away long, especially when Colonel 'Chargin' Charlie' Beckwith asked him to be the civilian trainer of his newly formed counter-terrorist unit, Delta Force. The adaptable Meadows applied all he knew of long range raiding, recon and close combat, and modified it to fit the terrorism environment, resulting in the world's most respected counter- terrorist organization.
Meadows, (left, with megaphone), trains at Eglin AFB, Fla., with the famous Son Tay Raiders for the 1970 attempt to rescue American POWs just 23 miles west of Hanoi.
He retired again in 1980, then a few months later came back to assist Delta's hostage rescue in Iran. The Carter Administration had gutted theCIA of operatives capable of reconning the U.S. Embassy in Tehran, leaving Delta Force planners without the tactical details they needed.
A CIA bureaucrat initially rejected Meadows as a covert advance man, calling him, "An amateur with poor cover, poor backup and poor training." Meadows told the CIA he'd go into Tehran with or without their assistance. Given those options, CIA Director Stansfield Turner approved Meadows and had him issued a false Irish passport. Apparently, Iranian immigration couldn't tell the difference between an Irish brogue and West Virginia twang, because they waved Meadows -- posing as 'Richard Keith,' a European auto executive -- right through customs.
Meadows surveilled the U.S. Embassy, reconned Delta Force's planned route into the city and watched for any hint of hostile counter-surveillance at the warehouse in which the CIA and a Green Beret advance team had hidden Delta's trucks and gear.
Meadows would guide the Delta raiders then join them in the assault -- but they never got to him. Deep in the Iranian desert, Delta's mission was aborted, two aircraft collided and its helicopters had to be abandoned. But in their rush to escape, the chopper pilots haphazardly left behind documents that disclosed Meadows' warehouse location. Due to satellite communications problems, Meadows did not learn what had happened for 24 hours and barely escaped into Turkey.
Meadows also played a yet undisclosed role in the 1979 rescue of two H. Ross Perot employees from an Iranian prison, a mission led by his old boss, Colonel Arthur 'Bull' Simons, which was the basis of Ken Follett's 1983 bestseller, "On Wings of Eagles."
"Virtually no one outside the black ops and Special Forces community knew of Dick Meadows until he made the cover of Newsweek in the early 1980s."
Meadows Last Patrol Despite an affinity for bass fishing, Meadows still could not retire.
In the mid-1980s he volunteered to operate an aircraft refueling front in the Caribbean to ensnare Columbian drug cartel smugglers.
Then he operated for a decade in Peru, helping plantation owners and businesses defend themselves from Sendero Luminosa terrorists who'd have nothing more than put a bullet through him -- they never got close.
Twice he told me he'd become frustrated by inadequacies in the War on Drugs, and doubted U.S. sincerity. Though he was not on the U.S.government payroll, many times over the past decade he helped 'the community' in ways which must remain unsaid. Several times he negotiated the release of kidnap victims in South America.
Presidential Citizens Medal Citation "With courage, initiative and devotion to duty, Major Richard Meadows, USA (ret), has made extraordinary contributions to the security of this nation. After enlisting in the Army at the age of 15, he became the youngest Master Sergeant of the Korean War. His exceptional Special Forces and civilian career included operations behind enemy lines in Vietnam for which he received a rare battlefield commission, leadership in a daring rescue attempt of POWs at Son Tay Prison near Hanoi, infiltration into Tehran for the Desert One hostage rescue mission, and a key role in establishing the elite Delta Force. Repeatedly answering our country's call and taking on the most dangerous and sensitive missions, few have been as willing to put themselves in harm's way for their fellow countrymen."
(s) William J. Clinton
[26 July 95]

Within weeks of his death, Meadows was still active in Central America.
During his career he'd been awarded every U.S. valor award except the Medal of Honor. "If he hadn't done so many things that are classified, he'd been the most decorated soldier in the Army," Colonel Elliot 'Bud' Sydnor, the ground force commander at Son Tay, told Newsweek magazine for a 1982 cover story.
When H. Ross Perot learned of Meadows' imminent death, he reportedly phoned President Clinton to see that he was awarded the Presidential Citizens Medal. It was presented posthumously to his family by the U.S. Special Operations Command commander, General Wayne Downing, who relayed the President's condolences and called Meadows, "one of America's finest unsung heroes."
Statement by President Clinton
'I mourn the passing today of Major Richard J. Meadows, USA (ret.), whose dedicated and exceptional service is cherished by everyone who knew of his extraordinary courage and selfless service.'
'I recently asked General Wayne Downing, the Commander-in-Chief of the U.S. Special Operations Command, to present the Presidential Citizens Medal to Major Meadows. I am gratified to know that Major Meadows' wife, Pamela, and son, Mark, a U.S. Army captain, and his daughter Michelle, will receive this award tonight at a gathering of those involved in the Son Tay raid at Hurlbert Field. Although this now will be a posthumous award, I am pleased that Major Meadows knew of this honor before he died.
To Major Meadows's family and friends and to the Special Operations community, I extend my heartfelt condolences. We will all remember him as a soldier's soldier and one of America's finest unsung heroes. Facing the certainty of death in his last week, he told me, "It's like I'm preparing for one last patrol." In those final days, Gen. Downing assured Meadows there would be a SOCOM award for young special operators to commemorate his name.
Having come so close at Son Tay and in Tehran, Dick once told me his only unfulfilled wish in life was, "To lead one that succeeded." That's the job now for younger men he and his record will inspire, perhaps a recipient of the award that bears his name.

 Toán OHIO FOB2 KONTUM 1966-1967
Hàng đứng (từ trái sang phài)
Văn Minh Huy, Wong A Cầu, MSG Richard J. "Dick" Meadows, 1st Lt. Lê Minh, SFC James A Simpsons, SFC N. "Chuck" Kerns, Trần Can và Trương Dậu
Hàng quỳ (từ trái sang phài)
Liêu A Sáng, Nguyễn Kim Trạch, Trương A Nhục và Lý A Dưỡng


Để tưởng nhớ đến:
• Trung Úy Phan Nhựt Văn (Sở Liên Lạc)
• Đại Úy Dick Meadows (MACVSOG)
• Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (Phi Đoàn 219 KingBee)
• cùng các Chiến Hữu Nha Kỹ Thuật đã phục vụ và hy sinh trong cuộc chiến tại Việt Nam.
Lê Minh

Thursday, May 19, 2011

Operation Vulcan / English and Vietnamese

 

 As the sun rose over the Tonkin Gulf, fishing boats ventured out onto the sparkling sea. Behind them lay the verdant coast, sharply outlined in the clear morning light. Fishermen came here regularly to cast their nets, taking advantage of the rich waters near the mouth of the Gianh River, about 40 kilometers miles north of Dong Hoi, North Vietnam's southernmost town of any note. But this was wartime, and the peaceful appearance was merely a facade. A kilometer upriver, on the south bank. lay Quang Khe naval base, home to part of Hanoi's fledgling coastal defense fleet. 
On 16 May 1962. the scene looked much the same as on any other day. No one suspected that just below the surface lurked an American submarine, the U.S.S.Catfish, carefully watching the naval base. A few days earlier, the submarine had sailed from the Philippines toward the mouth of the Gianh River on a mission codenamed WISE TIGER. Remaining in international waters, the Catfish was collecting data on Hanoi's fleet. The submarine was interested in Swatow gunboats, a Chinese-made vessel that formed the backbone of the North Vietnamese navy. Measuring 83-feet long, the boat packed up to three 37mm automatic cannons, two twin 14.5mm heavy  machine guns, and eight depth charges. With a crew of 30, a Swatow could travel at 28 knots and use its surface-search radar to detect incoming boats. A trio of Swatows was thought to be harbored at Quang Khe. After patient monitoring, the Catfish confirmed the presence of all three and sent word back to Manila. This was then relayed to Saigon. where the CIA was finalizing plans for a bold maritime strike against the gunboats. 
This mission was long in coming. Back in March 1961, the CIA had first proposed sabotaging North Vietnamese ports as part of a diverse covert warfare menu forwarded to president John F. Kennedy. The scheme lay dormant until the early spring of 1962, when Hanoi's increasing aggressiveness in both South Vietnam and neighboring Laos prompted Washington to re-examine its options. Frustrated by North Vietnamese involvement in the burgeoning southern insurgency, especially its expansion of the Ho Chi Minh Trail, the Kennedy administration groped for some way to react. Using covert action to send signals would become an increasingly common tool as the war escalated. 
Maritime operations were nothing new to the CIA. Beginning in 1951, the Agency had frequently used motorized junks and Taiwanese commandos to strike at the Chinese mainland, and during the Korean War, had deployed sabotage teams along the northern half of the peninsula. Adapting this experience to a North Vietnamese setting, the CIA case officers in Saigon envisioned a motorized junk making its way up the coast, and from there deploying a team of commandos to steal up the Gianh River and set charges against the Swatows. 
In April 1962, the CIA secured loan of Four Taiwan trained commandos. Code named Team VULCAN, they were brought to Danang and trained in planting limpet mines on the hulls of boats. The following month, after receiving confirmation of the gunboats' presence from the Catfish, the CIA decided to make a trial run. VULCAN and 10 crewmen loaded into the Agency's specially outfitted junk, Nautilus 2, and headed up the coast. Anchoring off the mouth of the Gianh River, the commandos sneaked to shore in a raft for a beach reconnaissance. After looking around for signs of activity, they returned to the junk. No one had seen them. 
Borrowed Commandos 
Captain Ha Ngoc Oanh, known by his call sign, Antoine, looked around the table at the four VULCAN commandos. A two-year veteran of the covert war, this was the first team under his direct supervision. When the final order to attack the Swatows came on 28 June, he scheduled this final briefing. Joined by a pair of CIA officers, Antoine translated instructions into Vietnamese, aided by aerial photos of Quang Khe taken just a few days earlier. On the wall behind him was a map of the naval base marked with avenues of approach and retreat. The commandos listened closely. From the junk, they would switch to a smaller wooden boat and head to the river mouth. Since there were three Swatows at Quang Khe, only three frogmen would enter the water and swim the rest of the way using scuba gear. The fourth combat swimmer, Nguyen Chuyen, would remain on the boat as backup.  They would target one boat apiece, planting a limpet mine below the water line near the engine, then swim  back to the boat. 
On the night of 29 June, Team VULCAN boarded the junk along with a dozen crewmen and cast off. Sailing through the night and all the next day, Nautilus 2 blended with other junks at sea. The following night they closed on their objective. Darkness cloaked the coastline. Just before midnight on 30 June, they cut both engines. Two crewmen lowered a small motorized launch  into the gentle swells, then climbed in.  The VULCAN commandos, dressed in scuba gear and each clutching a limpet mine, joined them. As its small outboard coughed to life, the skiff slowly parted from the junk. 
Fifteen minutes later, Le Van Kinh, one of commandos, could clearly see the shores the Gianh River. In the darkness, the VULCAN members set their mines to detonate in two hours -- sufficient time for them swim in, plant the charges, and get back to the skiff. Kinh put on his mask, cleared his mouthpiece, and slipped into the water. He was soon joined by two other commandos, Nguyen Van Tam and Nguyen Huu Thao. They quietly adjusted their masks and mouthpieces and entered the sea. 
The swimmers reached the North Vietnamese base about 45 minutes later and set about their work. In the oily water, Nguyen Huu Thao was in the process of fixing his limpet mine to a Swatow's hull. Hearing a commotion on the deck above, he apparently panicked - and the mine exploded in Thao's hands. What had been a stealthy raid was now a race for survival.
Kinh, the first commando in the water, had managed to place his mine without incident. Twenty meters from the Swatow, he surfaced to get his bearings. It was at that same moment that Thao's limpet detonated in a blinding flash. The shock wave hit Kinh on the back of the skull, then slammed into the rest of his body. As his limbs went numb, he floated helplessly on the surface. Kinh saw that the Swatow was badly damaged, but he also knew that the North Vietnamese would soon be swarming about the base. 
In the skiff, Nguyen Chuyen and the two crewmen watched as the explosion lit up the night. It took only moments for the North Vietnamese to spot the bobbing boat silhouetted in the smoke and flames. Frightened by the sound of revving Swatow engines and fearing the worst, the men did not wait around to see what would happen next. Their own engine coughed to life and the little boat turned tail for the open sea. In the stern, Chuyen raised a machine gun and fired long bursts toward his pursuers. The North Vietnamese fired back, and by the time the little boat reached the junk, Chuyen was hit and bleeding
Alone in the water, Kinh had little time to think. In pain, he kicked toward shore and rolled out of the water into a bush. Peeling off his tanks and wetsuit, he planned to hide until the commotion subsided, then try to swim south. It was not to be. Within an hour, North Vietnamese patrols found him. Beating Kinh almost senseless, they marched him off for interrogation. Blindfolded, he managed a smile as the sound of a second limper detonation rumbled in the distance. 
Nguyen Van Tam, the third swimmer, had only slightly better luck. After placing his limpet. he headed back toward the skiff. Then the first mine detonated prematurely and he suddenly found himself abandoned in the middle of the river. Tam spied a boat lying at anchor nearby and silently swam alongside. Hoping to creep out to sea unnoticed, he climbed over the gunwale-and into the arms of some North Vietnamese militiamen. 
Sinking Ships
Quang Khe erupted into action. Holed by the first limpet, Swatow 185 was taking on water fast. In the confusion, one gun- boat, Swatow 161,  took to sea after the escaping skiff.. Throttling up its engines, the gunboat surged into the bay looking for the culprits and soon spotted the little wooden boat. Tailing it back to the junk, the Swatow bore down on its quarry with guns blazing. Far from helpless, the crew of the Nautilus2 aimed machinegun fire at the gunboat in their wake. For the next three hours they kept the Swatow at bay as they ran south along the coast. At 0600 hours, however,  gunfire from the North Vietnamese vessel struck the junk's engine compartment. With Nautilus 2 dead in the water, the circling Swatow pummeled it to matchwood. Nguyen Chuyen, the frogman who had earlier escaped in the skiff, and one other crewman died in the exchange. 
As the Swatow picked its way among the floatsom, 10 surviving South Vietnamese were plucked from the water and blindfold ed. Unknown to the gunboat crew, an 1lth crew member, Nguyen Van Ngoc, was hiding in the junks partially submerged cabin. Clinging to the wreckage, he floated south toward the 17th Parallel, where he was spotted by a patrolling aircraft and rescued. 
On 21 July. Hanoi placed the captured commandos and crew before a jury. Receiving sentences of up to life in prison, the somber commandos headed for their cells. Photos of their captured equipment were splashed across English-language publications coming out of Hanoi, and one of the commandos was even coerced into making a public condemnation of the program.
Try, Try Again 
Despite the failure, there would be other operations. CIA headquarters sent a new man. Tucker Gougleman, to shape up the the maritime program. A seasoned paramilitary operative, Gougleman was a U.S. Marine Corps veteran of the Pacific campaign who walked with a permanent limp courtesy of a Japanese bullet. This handicap had not pre vented him from transferring to the CIA, where he spent the Korean War conducting strikes along the embattled peninsula. 
Gougleman could not have been pleased with the operation he took over. The CIA had half a dozen junks in Danang - and no qualified commandos. That fall the Agency put out a call for combat swimmers, and by November 1962 more than four dozen volunteers had been assembled at makeshift camps strung along the Danang waterfront. But without qualified teachers and training facilities, instruction proceeded at glacial speed. 
Gougleman's arrival quickly improved things. Shortly after he took over, a team of U.S. Navy Sea, Air, Land (SEAL) commandos were detailed to Danang for support, making Gougleman's job much easier. Two SEAL officers and 10 enlisted men spent six months training the South Vietnamese, and by late summer 1963, four action teams were ready, each made up of civilian agents combined with a handful of former South Vietnamese army sergeants. One of them, NEPTUNE, was qualified in scuba. Another, CANCER, consisted almost entirely of ethnic Chinese Nungs. 
Gougleman now had plenty of commandos, but he still had a problem with his boats. Although the North Vietnamese navy paled in comparison to the South Vietnamese, Hanoi's gunboats both outgunned and outpaced the CIA's motorized junks. Clearly, Gougleman needed a better vessel to get his men to and from their target. 
The search for such a boat dated back to 1959 when the U.S. Navy began looking for something to replace its aging WWII torpedo boats. One of the top choices was the Norwegian Nasty-class patrol boat. Built by Westermoen in Mandel, Norway, the Nasty was one of the fastest and most reliable patrol boats of its day. Its superior performance came from two diesel Napier engines which could propel the 24-meter, 80-ton mahogany and fiberglass hull at speeds of more than 40 knots. Packing a wide range of light weapons, it could cover 1,600 kilometers without refueling. Best of all, its foreign manufacture afforded plausible deniability for covert operations. 

vulcan1.jpg (54325 bytes) Norwegian Nasty boat undergoing modifications at Subic Bay, Philippines, before being shipped to Danang to run covert operations along the North Vietnamese coast
The VULCAN failure brought the CIA into the picture. In Washington, the Joint Chiefs of Staff pushed for a new boat, a call echoed by American military commanders in Saigon (represented by the newly formed Military Advisory Command, Vietnam - MACV). In August 1962, General Paul D. Harkins, the MACV commander, had suggested that U.S. motor torpedo patrol (PT) boats be used for missions north. His proposal had already been sent for review by President John F. Kennedy's top national security advisors. 
President Kennedy, himself a PT boat commander during WWII, liked the idea. On 27 September, Washington cabled approval for the scheme. Acting on this mandate, the U.S. Navy took two of its 1950-vintage, aluminum hulled torpedo boats, PT-810 and PT-811, out of mothballs at the Philadelphia Naval Shipyard to fill the bill until new boats could be sent to South Vietnam. The two aluminum boats, nicknamed "gassers" because their antiquated engines, burned gasoline rather than more efficient diesel, took a couple of months to refurbish. Each was given a 40mm automatic grenade launcher on the bow, a .50-caliber machine gun amidships, and engine muffling to run more quietly. They were also renamed: PTF- 1 and PTF-2 (Patrol Torpedo Boat, Fast, in Navy nomenclature). 

The first "fast boats" sent to Vietnam for secret operations were WWII-era PT boats. the PT-810 was re-designated PTF-1 and took part in several operations. vulcan3.jpg (115856 bytes)
While the gassers were being readied, the CIA bypassed the Pentagon's bureaucracy and ordered two Nastys. In early 1963, at the same time that Gougleman arrived in Danang, the Agency passed both ships to the U.S. Navy for comprehensive testing. Designated PTF-3 and PTF-4, they were refitted that spring with U.S. equipment for familiarization drills at Little Creek, Virginia. 
On 28 June, Admiral George W. Anderson, the Chief of Naval Operations, assigned the boats to the Pacific Fleet's Amphibious Group I, to occur immediately following modifications to their armament. Technicians added two 40mm automatic grenade launchers and two 20mm automatic cannons, plus two 3.5-inch rocket launchers and provisions for up to three flamethrowers. Work was completed by the end of August, and the boats were loaded aboard the transport ship Vancouver- for the journey to San Diego via the Panama Canal. 
All this took time, however  and the CIA needed to gets its maritime operations back up to speed. Gougleman needed an interim boat to put into immediate operation before the arrival of the Nastys. The answer came from another covert operation, this one in Cuba. Since the 1961 Bay of Pigs disaster the Agency had been authorized to conduct a maritime harassment campaign against Cuban ruler Fidel Castro, and they picked a boat that already was a common sight on the Gulf of Mexico -- a vessel made by Seward Seacraft in Burwick, Louisiana, known as the Swift. Originally designed for oil companies operating in the Gulf's far flung drilling platforms, it was 15 meters long, displaced 20 tons, and had two diesel engines. 
The Swifts were still in California undergoing modifications when the call came for boats to handle North Vietnam missions. Three were immediately crated and sent to the Philippines. From there, they were ferried to Saigon. Sailing up the coast to Danang, they were ready for action by October 1963. While the Swifts were a welcome addition to Gougleman's clandestine maritime force, they had one drawback. Though easier to maintain than the temperamental Nastys, they represented an insurmountable leap in technology for the CIA's existing roster of junk crewmen. This put the Agency in a fix. Forbidden from recruiting experienced sailors from the South Vietnamese navy, and also unable to use Americans in order to uphold plausible deniability, there was nobody on hand to operate the boats. 
So the CIA turned to foreign experts. As they already had developed good contacts in Oslo during the Nasty purchase, they arranged for three Norwegian civilians to be hired on six-month contracts. Arriving in Danang, they were given the barely disguised codename "Viking" and assigned as skippers, one per Swift. Young and aggressive, the Norwegians got along well with the South Vietnamese. "They were real Vikings," remembers Captain Truong Duy Tai, a maritime case officer. "They knew about navigation so well." 
Now with boats as well as crews, the CIA planned its first maritime hit-and-run since the VULCAN debacle. But planners showed little imagination --their plans called for essentially a repeat of the failed strike against the Swatows at Quang Khe. The only difference was the team would ride a Swift instead of a junk. 
On 15 December, one of the new powerboats headed north. Aboard was Team NEPTUNE -- the lone scuba-qualified team - with a supply of limpet mines. Short of their target, however, the skipper became lost, forcing an abort. 
Returning to Danang, the CIA waited out the New Year. Finally, on 14 January 1964, they launched an ambitious doubleheader. Plans called for two Swifts to leave their berths shortly before midnight. They would stay together until they crossed the Seventeenth Parallel, then continue to their objectives alone. One would head for a coastal desalinization plant near the town of Dong Hoi. The other would go to the Ron River, 18 kilometers farther up the Quang Binh coast from the Swatows on the Gianh. One kilometer inland along the Ron was a ferry which connected North Vietnam's major north-south logistical artery, Route 1. 
The Dong Hoi team, codenamed ZEUS, had no problems. The Norwegian skipper approached his designated target just before dawn, throttling back on the engines as he neared shore. Unlike the earlier scuba attacks, the ZEUS commandos took a rubber boat to shore. There they off-loaded a makeshift weapons package devised by CIA technicians. Consisting of six 3.5-inch "flat-firing" rockets, the cluster was affixed to a central battery pack. Pointing it in the general direction of the desalinization plant, they set a timer, slipping back into their rafts, and reached the Swift without incident. 
The second team, codenamed CHARON, was not as lucky. When the Swift was less than 19 kilometers from its target, the Norwegian skipper spotted a boat heading toward them from the north. Though not moving fast enough to pose a threat, the Viking reversed course, taking evasive turns until he lost his pursuer. Hugging the coast, he then doubled back north. They were now more than an hour behind schedule. 
Electing to proceed with the mission, the team leader ordered CHARON into a rubber raft. As they neared the mouth of the Ron, the team donned flippers and entered the water. Dividing in two, a pair of swimmers headed along the north bank, while the other two pushed along the south. Quickly, things began to fall apart. One pair soon encountered a junk coming downriver. With heavy silt clogging the entrance of the Ron, they feared that the water was not deep enough to clear the passing hull without being seen. Panicking, they turned swam back to the rubber raft. 
The second pair was nowhere found. After exceeding their proscribed wait, the first two swimmers headed the Swift alone. With dawn fast approaching, the Norwegian captain reluctantly decided it was time to leave. But as the engines throttled up, he spotted a flashlight blinking near shore. Taking an enormous  risk, he turned the Swift inland. relief, bobbing in the water were 1 missing swimmers. With a full complement, they headed south.
Back at Danang, the CIA had mixed emotions about the missions. CHARON had failed to reach its objective, and while claiming it was sure the rockets went off, had not actually been there to witness the event. On the other hand, both teams had returned safely, marking the first time any of the Agency's saboteurs had managed to return home intact. 
It would be one of the last CIA maritime operations in Vietnam. In January 1964 the entire covert program was transferred to the Pentagon and called Operational Plan 34A. The military would continue the missions using the new Nasty patrol boats - the command of SOG, the Studies Observation Group. Ranging up and down the North Vietnamese coast the Nastys were only moderately successful, but in 1964 they helped trigger a wider American role in the war with their role in the Gulf incident. 
Dale Andrade,  Ph.D., resides in Washington, D.C.


HÀNH QUÂN VULCAN
Dr. Dale Andrade

        Khi ánh mặt trời nhô lên trong vịnh Bắc Việt, những chiếc tầu đánh cá của ngư dân miền bắc đã ra khơi, trong những tia sáng lóng lánh phản chiếu trên mặt nước biển. Họ thường thả lưới ngay trước cửa miệng sông Gianh, đổ ra biển, cách Đồng Hới khoảng 40 cây số về hướng bắc. Lúc đó đang trong thời gian chiến tranh, vẻ bình yên chỉ là điều giả tạo. Đi ngược lên giòng sông khoảng một cây số, nơi bờ phiá nam, có căn cứ Hải Quân Quảng Khê của miền Bắc.
        Ngày 16 tháng Năm 1962, khung cảnh cũng bình thường như mọi ngày. Không ai biết rằng, dưới mặt nước biển có chiếc tầu ngầm Hoa Kỳ đang lặng lẽ dò thám bờ biển miền bắc Việt Nam. Tên của chiếc tầu ngầm đó là USS Catfish, đang theo dõi các hoạt động trong căn cứ Hải Quân Quảng Khê. Vài ngày trước, chiếc tầu ngầm đã di chuyển từ Philippine đến cửa sông Gianh trong một nhiệm vụ bí mật có mật danh là Wise Tiger.
        Khi đến vịnh Bắc Việt, chiếc tầu ngầm Catfish nằm ngoài hải phận quốc tế, thâu thập tin tức về Hải Quân Bắc Việt, đặc biệt để ý những chiếc tốc đỉnh (tầu loại nhỏ, chạy nhanh để tấn công) Swatow đóng ở bên Tầu (Hoa Lục). Những chiếc tầu này là lực lượng biên phòng nồng cốt của Hải Quân miền bắc. Dài khoảng 83 bộ, trang bị ba khẩu đại bác 37 ly, có thể bắn liên lục (automatic), đại liên nòng đôi 14,5 ly, và radar. Với thủy thủ đoàn 30 người, chiếc Swatow có thể chạy với vận tốc 28 knots. Sau khi đã nhận diện ba chiếc Swatow đang thả neo trong căn cứ Hải Quân Quảng Khê, chiếc tầu ngầm Catfish gửi điện văn báo cáo về Philippine rồi được chuyển tiếp vào Saigon. Cơ quan tình báo CIA soạn thảo kế hoạch phá hoại ba chiếc tầu đó.
        Kể từ tháng Ba năm 1961, cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA đã đưa ra kế hoạch đánh phá các hải cảng nơi miền bắc Việt Nam, một phần trong những hoạt động bí mật và đệ trình lên Tổng Thống John F. Kennedy. Bản thảo của kế hoạch này được cho vào tủ sắt, cho đến mùa Xuân năm 1962, khi quân đội Bắc Việt gia tăng những hoạt động trong miền nam và nước láng giềng Lào. Điều này làm giới lãnh đạo Hoa Kỳ ở Washington phải xem lại những kế hoạch hoạt động bí mật nơi miền bắc Việt Nam.
        Bực tức vì Bắc Việt gia tăng các hoạt động quân sự trong miền nam, đặc biệt phát triển thêm đường mòn HCM, chính quyền Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Kennedy tìm cách phản ứng.
        Những hoạt động bí mật của hải quân không phải là điều mới lạ đối với cơ quan CIA. Từ năm 1951, cơ quan này đã xử dụng những chiếc thuyền ngụy trang tầu đánh cá và cảm tử quân Đài Loan tấn công bờ biển Hoa Lục. Trong trận chiến tranh Hàn Quốc, cơ quan CIA cũng tổ chức những vụ đánh phá tương tự đối với Bắc Hàn. Dựa vào những kinh nghiệm kể trên, viên chức CIA trong Saigon hình dung ra kế hoạch, xử dụng những chiếc tầu máy, ngụy trang ra miền bắc, chở theo biệt kích phá hoại ba chiếc Swatow của Hải Quân Bắc Việt.
        Trong tháng Tư năm 1962, cơ quan CIA thuê bốn “người nhái” Hải Quân Việt Nam đã được huấn luyện ở Taiwan. Toán người nhái này có tên là Vulcan. Qua tháng Năm, sau khi được tầu ngầm Catfish xác nhận về sự hiện diện của mấy chiếc tầu Swatow trong căn cứ Hài Quân Quảng Khê, cơ quan CIA quyết định ra tay.
        Toán Vulcan cùng với 10 thủy thủ đoàn trên chiếc tầu Nautilus 2, ngụy trang giống như các tầu đánh cá ngoài bắc, chạy ra miền bắc. Họ thả neo nơi cửa sông Gianh, toán biệt kích bí mật bơi xuồng vào quan sát bờ biển rồi quay trở lại chiếc Nautilus.
        Đại úy Hà Ngọc Oanh, danh hiệu Antoine, nhìn bốn người nhái Vulcan ngồi quanh bàn. Đã có hai năm làm việc trong các hoạt động bí mật, đây là toán người nhái đầu tiên ông ta chỉ huy. Sau khi nhận được lệnh phá hoại mấy chiếc tầu Swatow hôm 28 tháng Sáu, đại úy Oanh chủ tọa buổi thuyết trình cuối cùng cho chuyến công tác.
        Trong buổi thuyết trình có hai nhân viên CIA, đại úy Oanh thông ngôn những chỉ thị cho toán biệt kích người nhái, có thêm không ảnh chụp khu vực Quảng Khê từ mấy hôm trước. Đằng sau lưng ông ta có tấm bản đồ căn cứ Hải Quân Bắc Việt lớn, có những vệt bút chì chỉ dẫn lộ trình xâm nhập, và rút lui. Mấy người nhái toán Vulcan chăm chú lắng nghe, từ chiếc thuyền lớn Nautilus, họ sẽ xuống thuyền nhỏ đóng bằng gỗ, xâm nhập vào cửa sông Gianh. Trong căn cứ hải quân Quảng Khê, chỉ có ba chiếc tầu Swatow, nên ba người nhái sẽ mang chân vịt bơi vào. Người nhái thứ tư Nguyễn Chuyên ở lại làm thành phần trừ bị. Ba người kia sẽ bơi vào, gắn mìn dưới thân tầu, chỗ gần buồng máy xong, bơi trở ra xuồng gỗ rồi cả toán Vulcan rút lui.
        Đêm 29 tháng Sáu, toán người nhái Vulcan lên chiếc tầu ngụy trang Nautilus 2, cùng với thủy thủ đoàn hướng ra ngoài miền bắc. Chiếc tầu chạy suốt đêm, qua ngày hôm sau, chiếc Nautilus 2 hòa nhập vào những thuyền đánh cá khác nơi miền bắc. Đến buổi tối, họ đã tiến gần đến mục tiêu. Trước nửa đêm, ngày 30, họ tắt máy tầu, và hai người thủy thủ hạ chiếc xuồng gỗ có gắn động cơ xuống nước. Các người nhái toán Vulcan đem theo đồ lặn, vũ khí cùng với mấy qủa mìn leo xuống, lặng lẽ chạy vào bờ.
        Mười lăm phút sau, người nhái Lê Văn Kính đã nhìn rõ bờ biển, nơi cửa sông Gianh. Các người nhái có hai tiếng đồng hồ đem mìn, bơi vào, gắn mấy qủa mìn rồi bơi trở lại xuồng. Kính đi chân vịt vào, từ từ xuống nước bơi vào bờ. Bơi theo Lê Văn Kính còn có hai người nhái khác là Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Hữu Thao.
        Khoảng bốn mươi lăm phút sau, họ vào đến mục tiêu, chia nhau gài mìn ba chiếc tầu Swatow. Nguyễn Hữu Thao đang gài qủa mìn dưới lườn một chiếc Swatow, chợt nghe tiếng người đi trên bong tầu, hốt hoảng làm cho quả mìn nổ tung. Chuyến đột nhập đã bị phát giác, hai người nhái còn lại lo tìm đường tẩu thoát.
        Lê Văn Kính đã gài xong qủa mìn, anh bơi ra xa khoảng 20 thước, trồi lên để thở, đúng lúc tiếng nổ của quả mìn Nguyễn Hữu Thao làm Kính choáng váng, tê chân, trôi dật dờ trên mặt nước. Anh ta biết rằng, đơn vị an ninh Bắc Việt sẽ tràn đầy trong khu vực và đi lùng bắt toán người nhái xâm nhập.
        Nguyễn Chuyên ngồi chờ trên chiếc xuồng cùng với hai thủy thủ đoàn, họ nghe tiếng nổ vang dội cùng với ánh lửa loé lên trong màn đêm. Quân Bắc Việt trông thấy chiếc xuồng đang bập bềnh trên sóng, rồi có tiếng động cơ của chiếc tầu Swatow. Cả ba người hốt hoảng, không thể chờ được nữa, cho chiếc xuồng chạy trở lại chiếc Nautilus 2. Vừa chạy, Chuyên vừa bắn trả lại chiếc tầu đang đuổi theo. Khi ra đến chiếc Nautilus 2, Chuyên đã trúng đạn bị thương.
        Trong màn đêm, Kính bơi vào bờ, cởi bỏ bộ quần áo lặn, nằm trốn trong đám sau sậy. Anh ta định đợi cho êm, rồi tìm cách bơi về phiá nam. Cơ hội đó không bao giờ đến, trong vòng một tiếng đồng hồ, toán tuần tiễu tìm ra được chỗ Kính đang trú ẩn, bắt sống, đánh đập dã man, rồi lôi anh ta đi đến phòng an ninh để điều tra.
        Người nhái thứ ba, Nguyễn Văn Tâm may mắn hơn chút xíu. Anh ta gài xong qủa mìn nhanh chóng rồi bơi trở về chiếc xuồng đang đợi nơi cửa sông Gianh. Đang bơi, nghe tiếng nổ của qủa mìn... rồi tiếng tầu thuyền đuổi nhau, anh ta biết mình bị bỏ rơi. Nhìn quanh, anh Tâm trông thấy một chiếc thuyền nhỏ, tưởng của dân đánh cá, bơi lại, leo lên, rơi vào tay của lực lượng dân quân miền bắc.
        Căn cứ Hải Quân Quảng Khê phản ứng, cho mấy chiếc Swatow chạy ra biển. Chiếc mang số 161 trông thấy chiếc tầu ngụy trang đánh cá Nautilus 2 đang trên đường chạy về hướng nam, nên đuổi theo. Chiếc Nautilus 2 vừa chạy vừa bắn đại liên về phiá sau để thoát thân, nhưng chịu không nổi hỏa lực của chiếc Swatow. Đến gần 6:00 giờ sáng đạn đại bác trúng máy tầu chiếc Nautilus 2, làm chiếc tầu này không chạy được nữa, nằm chờ chết. Chiếc Swatow chạy vòng quanh bắn phá cho đến khi chiếc tầu Nautilus 2 vỡ ra thành nhiều mảnh gỗ. Người nhái Nguyễn Chuyên vừa thoát chết, trúng đạn chết cùng với một thủy thủ đoàn.
        Chiếc Swatow vớt lên 10 thủy thủ chiếc tầu bị bắn tan tành. Họ không biết, người thứ 11 Nguyễn Văn Ngọc, vẫn còn trốn dưới chiếc tầu đang chìm. Sau khi chiếc Swatow quay đi, anh Ngọc bám được mảnh ván trôi về phiá nam vĩ tuyến 17 và được phi cơ quan sát trông thấy, cứu thoát đem về Đà Nẵng.
        Ngày 21 tháng Bẩy, chính quyền Hà Nội đem hai người nhái sống sót cùng 10 thủy thủ chiếc tầu Nautilus 2 ra tòa. Hai người nhái lãnh án tù chung thân, tống giam vào ngục. Chính quyền miền bắc, trưng bầy những vũ khí vật dụng tịch thâu được trước báo chí quốc tế, và một người nhái đã bị họ ép buộc lên án kế hoạch đánh phá miền bắc trước các phóng viên, báo chí.
        Mặc dầu thất bại, cơ quan CIA vẫn tiếp tục, gửi ra Đà Nẵng một chuyên viên, Tucker Gougleman để chỉnh đốn lại chương trình “Biệt Hải”. Gougleman là một cựu TQLC, chiến đấu trong vùng Thái Bình Dương, sau đó được cơ quan CIA tuyển một. Trong trận chiến Hàn Quốc, ông ta chuyên tổ chức bắn phá các căn cứ quân sự của Bắc Hàn dọc theo bờ biển.
        Khi ra tới Đà Nẵng, Gougleman nhận thấy rằng, cơ quan CIA đã có khoảng nửa chục chiếc tầu ngụy trang theo kiểu thuyền đánh cá ngoài bắc (Nautilus, đóng ở Đà Nẵng), nhưng không có lính biệt kích hải quân (Biệt Hải) đủ tiêu chuẩn. Trong mùa Thu năm đó, cơ quan CIA tuyển mộ những người có khả năng bơi lội, và đến tháng Mười Hai năm 1962, họ đã có hơn bốn toán mười hai người (4x12).  
        Gougleman được một toán Người Nhái (SEAL) Hải Quân Hoa Kỳ gồm hai sĩ quan và mười binh sĩ đến huấn luyện cho các người nhái Việt Nam. Đến cuối mùa Hè năm 1963, bốn toán biệt kích người nhái Việt Nam đã thụ huấn xong, sẵn sàng lên đường công tác. Hầu hết các toán viên người nhái đều được tuyển mộ từ đời sống dân sự, các trưởng toán là hạ sĩ quan Lục Quân VNCH. Một toán có tên là Neptune là toán người nhái, tốt nghiệp khóa Scuba (lặn dưới nước), toán Cancer hầu hết là người thiểu số Nùng.
        Gougleman đã có đủ số biệt kích hải quân, nhưng vẫn còn một trở ngại khác. Mặc dầu Hải Quân miền bắc không có những chiến hạm lớn như trong miền nam, tuy nhiên mấy chiếc Swatow chạy nhanh hơn, võ trang mạnh hơn, dư sức ăn tươi nuốt sống mấy chiếc tầu gỗ ngụy trang theo kiểu tầu đánh cá ngoài bắc. Kinh nghiệm chuyến hành quân Vulcan cho biết, Gougleman cần những chiếc tầu chạy nhanh hơn để có thể đưa những toán biệt kích ra đánh phá bờ biển miền bắc rồi đưa họ về an toàn.
        Sự thất bại của chuyến hành quân Vulcan làm cho cơ quan CIA phải nghĩ lại. Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ thúc đẩy cho việc tìm kiếm một loại tầu khác. Bộ Chỉ Huy Quân Viện (MACV) tại Việt Nam vừa mới thành lập, dưới quyền đại tướng Paul D. Harkin đề nghị xử dụng tầu phóng thủy lôi (PT boat) cho những chuyến “ra ngoài bắc”. Đề nghị của đại tướng Harkin đã được gửi về Washington cho những cố vấn an ninh cao cấp của Tổng Thống Kennedy duyệt xét.
        Ngày 27 tháng Chín, Washington gửi công điện chấp thuận đến cơ quan MACV trong Saigon. Hải Quân Hoa Kỳ gửi qua hai chiếc tầu phóng thủy lôi đóng từ năm 1950 qua Việt Nam PT-810 và PT-811 đê xử dụng tạm thời cho đến khi có loại tầu mới. Mỗi chiếc PT được trang bị súng phóng lựu đạn tự động 40mm, đại liên 50. Qua Việt Nam, hai chiếc tầu phóng thủy lôi được đổi tên PTF-1 và PTF-2.
        Cơ quan CIA đi vòng qua “thủ tục của Washington”, đặt mua hai chiếc tầu Nasty của Na Uy. Đến đầu năm 1963, họ có thêm hai chiếc tầu nhỏ, chạy nhanh để tấn công, đặt tên là PTF-3 và PTF-4. Đến tháng Mười, Gougleman nhận thêm hai chiếc Swift, đóng ở Louisiana. Lúc đó lại có thêm một vấn đề, thủy thủ đoàn ghe đánh cá ngụy trang (Nautilus) không đủ kinh nghiệm để lái những loại tầu chiến tối tân.
        Cơ quan CIA lại phải tìm kiếm, tuyển mộ thuyền trưởng (người lái tầu) ở các nước tây phương. Khi đặt mua hai chiếc tầu Nasty, cơ quan CIA đã có “sự quan hệ” ở Oslo, thủ đô của Na Uy, nên việc tìm người, tuyển mộ không khó. Họ thuê ba thường dân Na Uy qua Việt Nam làm việc với thời hạn sáu tháng. Khi đến Đà Nẵng, ba người Na Uy được đặt tên là “Viking”, và làm thuyền trưởng ba chiếc PTF. Họ còn trẻ, hăng say, rất hợp với người Việt Nam, đại úy Trương Duy Tài, một sĩ quan hải quân trong chương trình cho rằng “Họ đúng là người Viking... Họ lái tầu, và định hướng rất giỏi”.
        Ngày 15 tháng Mười Hai, một chiếc tầu PTF hướng ra miền bắc, đem theo toán người nhái Neptune (duy nhất, các toán kia là biệt hải). Họ đem theo mìn định làm lại chuyến tương tự như toán Vulcan trước đây. Nhưng chưa đến mục tiêu, người tuyền trưởng lạc hướng nên phải hủy bỏ chuyến công tác, quay về Đà Nẵng.
        Cơ quan CIA đợi đến ngày 14 tháng Giêng năm 1964, ra lệnh tấn công hai mục tiêu. Theo kế hoạch, hai chiếc PTF sẽ rời bến trước nửa đêm, chạy song song đến khi qua vĩ tuyến 17 sẽ tách ra. Một chiếc sẽ hướng về nhà máy lọc nước gần thị trấn Đồng Hới, chiếc kia sẽ tiếp tục chạy lên khoảng 18 cây số nữa, tránh sông Gianh và những chiếc Swatow, đến sông Ron. Ngược lên giòng sông khoảng một cây số có một chiếc phà vận chuyển lưu thông bắc nam.
        Toán biệt hải tấn công Đồng Hới có danh hiệu Zeus không gặp trở ngại. Khi đến gần bờ, toán biệt hải xuống xuồng cao su chạy vào bờ, đem theo ống phóng có sáu hỏa tiễn đặc biệt 3.5 (inches) do chuyên viên vũ khí cơ quan CIA chế tạo. Các biệt hải đặt hỏa tiễn bắn vào mục tiêu nhà máy lọc nước, điều chỉnh giờ phút khai hỏa rồi rút lui trở lại chiếc PTF đang đợi, tất cả lên tầu chạy về Đà Nẵng.
        Toán biệt hải thứ hai có danh hiệu Charon không được may mắn. Khi chiếc Swift còn cách mục tiêu 19 cây số, thuyền trưởng người Na Uy trông thấy có chiếc tầu chạy từ hướng bắc xuống, nên đổi hướng tránh. Sau khi tránh được chiếc tầu lạ, “The Viking” đưa toán biệt hải Charon đến mục tiêu trễ một tiếng đồng hồ.
        Quyết định thi hành nhiệm vụ, người trưởng toán biệt hải ra lệnh cho toán viên xuống xuồng cao su bơi vào bờ. Khi đến gần cửa sông Ron, họ mang chân nhái vào rồi chia ra hai cặp. Một cặp bơi dọc theo bờ phiá bắc, cặp kia bơi theo bờ phiá nam. Chuyện không may xẩy ra, một chiếc tầu đi từ sông ra, một cặp người nhái sợ bị phát giác nên vội vã bơi trở về xuồng cao su.
        Cặp người nhái thứ hai không thấy đâu. Đợi một lúc sau cũng không thấy, hai người nhái bơi xuồng trở về chiếc Swift. Trời gần sáng, nguời thuyền trưởng Na Uy đành phải lái chiếc tầu quay về. Nhưng khi vừa nổ máy tầu, họ trông thấy có ánh đèn từ bờ biển chiếu ra, ông ta lái chiếc Swift chạy vào gần bờ đón được hai người nhái, rồi chạy thẳng về hướng nam.
        Về đến Đà Nẵng, cơ quan CIA mừng rỡ vì tất cả đều về đến căn cứ an toàn, mặc dầu không được chứng kiến kết qủa. Đó cũng là một trong những chuyến hành quân do cơ quan CIA đảm trách. Trong tháng Giêng năm 1964, tất cả hoạt động của cơ quan CIA bàn giao cho quân đội. Những kế hoạch, chương trình đánh phá miền Bắc Việt Nam được gọi là Hành Quân 34A nằm trong đơn vị SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát).
Dallas, TX.
vđh