Sau
khi hay tin 15 Biệt Hải thuộc Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt được
một ngư thuyền cứu vớt tại eo biển Qui Nhơn, cách đảo Cù Lao Xanh (hay
còn gọi là Mũi Yến) 55 cây số về phía Đông và vẫn còn ở ngoài hải phận
quốc tế, nhiều phóng viên quân đội đã chạy đôn chạy đáo tìm mọi cách để
đến gặp và nhìn tận mắt những người lính biển đầu tiên đã viết những
dòng hải sử chiến đấu chống quân Trung cộng, kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc Việt Nam. Chỉ với 15 người lính, các anh đã phải đối đầu với một lực
lượng hung hãn địch gấp gần 20 lần hơn trên đảo Vĩnh Lạc.
Trong lúc những chiến hạm của Hải Quân Việt Nam còn đang giáp chiến với
hải quân Trung cộng, tiếng đại bác của hai bên nổ rền mặt đại dương,
thì 15 chiến sĩ Biệt Hải đã kiệt liệt đối súng với hàng trăm lính bộ
chiến của Trung cộng trên hòn đảo nhỏ này. Giữa cơn lửa đạn mù rời, toán
Biệt Hải nhận được lệnh rút bỏ Vĩnh Lạc, vì cấp chỉ huy mặt trận Hoàng
Sa không thể hy sinh oan uổng những đoàn viên ưu tú nhất của quân chủng.
Không có một chiếc tàu nào đến đón, vì lúc đó 14 tàu chiến Trung cộng
đang vây đánh Tuần Dương Hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt, Tuần Dương Hạm HQ 5
Trần Bình Trọng, Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 và Khu Trục Hạm Trần Khánh
Dư HQ 4. Chiếc xuồng đổ bộ giờ đây đã trở thành chiếc phao cứu sinh duy
nhất của toán
chiến sĩ lạc loài này. Cuộc hành trình vượt chết trên vùng biển bão tố
bắt đầu.
Một
toán thám sát Biệt Hải được chiếc HQ 16 Lý Thường Kiệt thả xuống gần
đảo Vĩnh Lạc, rồi các anh dùng thuyền nhỏ chèo vào và đổ bộ lên bờ biển.
Đảo Vĩnh Lạc (còn gọi là đảo Quang Ảnh hay Money) thuộc chủ quyền Việt
Nam từ thời triều đình nhà Nguyễn, nhưng đã bị hải quân Đài Loan lợi
dụng lúc ra giải giới quân Nhật khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh ngày
21.8.1945, đã ngang ngược chiếm lấy và tuyên bố chủ quyền từ năm 1946.
Đến lượt Trung cộng đoạt lấy đảo Vĩnh Lạc cuối năm 1949, sau khi đánh
bại quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở lục địa. Đảo Vĩnh Lạc, cũng như hầu
hết các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Paracel) có cấu tạo san
hô rất kiên cố, nên địa thế rất khó khăn cho tàu bè cặp bến. Đây là đảo
có nhiều cây cối và là nơi chim biển đến sinh sống nhiều nhất. Số phân
phosphate từ phân chim ước lượng phải gần 1,200,000 tấn. Đó là một trong
những lý do tại sao thu hút lòng tham lam bất chính của cả Đài Loan và
Trung cộng.
Trung
Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, khi anh dẫn 15 chiến sĩ đổ bộ
lên Vĩnh Lạc, đã khám phá bốn ngôi mộ với bốn cái bia đá do Trung cộng
dựng nên để xác nhận chủ quyền của chúng. Những ngôi mộ chẳng biết có bộ
xương nào ở dưới hay không, nhưng những tấm bia chỉ là biểu trưng của
sự giả trá quỉ quái của bọn cộng sản, với dụng ý chứng tỏ đã có dấu chân
của chúng từ lâu. Trung Úy Liêm ra lệnh cho đoàn viên Biệt Hải nhổ
những tấm bia đá này chuyển xuống HQ 16 để chuyên viên của ta dịch sang
Việt ngữ xem chúng khắc cái quái gì trên đó, rồi đem về Sài Gòn. Ngoài
nhiệm vụ phá hủy những di chứng giả
tạo của Trung cộng, Toán Biệt Hải còn có công tác cắm cờ Việt Nam và
bảo vệ cờ để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa.
Khi
Trung Úy Liêm cùng chiến sĩ Biệt Hải của anh đặt chân lên đảo Vĩnh Lạc,
hòn đảo hoàn toàn hoang vắng không một bóng người, chỉ có mỗi bốn nấm
mộ nằm chơ vơ giữa vùng trời nước. Quân ta nằm bố trí trên đảo chờ
chuyến tiếp tế, nhưng vì các chiến hạm còn đang theo dõi thám sát những
hành động của tàu Trung cộng, nên mãi đến chiều ngày 17.1.1974 mới có
tàu đến đổ xuống một khối lượng lương khô cho 93 ngày, có nghĩa là Bộ Tư
Lệnh Mặt Trận Hoàng Sa của Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đã dự định phải
giữ đảo ít nhất là ba tháng. Tiếng súng hải chiến bắt đầu nổ trên vùng
biển Hoàng Sa ngày 19.1.1974. Lúc đó là 10 giờ 25 sáng. Lúc 10 giờ 22
phút, một hộ tống hạm Trung cộng loại Kronstadt đã hướng mũi tàu đâm
thẳng vào Khu Trục Hạm HQ 4 Trần Khánh Dư đang giữ chặt đảo Quang Hòa.
HQ 4 nhận được lệnh khai hỏa từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn, quả đại
bác đầu tiên được bắn ra sau nhiều ngày sẵn sàng tác chiến đã trúng ngay
chiếc tàu giặc. Chiếc Kronstadt bị chìm xuống đáy biển. Chiếc HQ 4 bị
hư hại nhẹ. Với chiến thắng nức lòng đó, những HQ 5, HQ 10 và HQ16 tuần
hành chung quan các đảo Quang Hòa và Duy Mộng đồng nổ súng đánh đuổi
địch. Cả một vùng Hoàng Sa ầm tiếng sấm phẫn nộ của người nước Nam. Hộ
Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trúng một chiếc hỏa tiễn Styx từ chiến hạm Trung
cộng bị hư hại rất nặng
và chìm dần. Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà trúng đạn giặc ở cầu thang
chỉ huy, đã anh dũng hy sinh, 32 chiến sĩ trên tàu bị mất liên lạc.
Những thủy thủ của HQ 10 bềnh bồng giữa đại dương đến 6 giờ 30 chiều
ngày 22.1.1974 thì được thương thuyền Hòa Lan KOPIONELLA vớt được 23
người, cách phía Đông Đà Nẵng 287 cây số. Sáng hôm sau, chiến hạm Việt
Nam đến tiếp nhận số chiến sĩ lưu lạc này, trong số đó có thân xác của
Hải Quân Đại Úy Nguyễn Mạnh Trí, Hạm Phó HQ 10, đã chết và 2 chiến sĩ bị
thương.
Những
chiến sĩ Biệt Hải nằm trên đảo Vĩnh Lạc nhìn về hướng Duy Mộng và Quang
Hòa cách đảo chừng 34 cây số đã thấy những đốm lửa sáng lóe lên. Đoàn
viên truyền tin liên lạc với Đài Khí Tượng thì được biết một tàu Trung
cộng đã bị quân ta bắn trúng đang từ từ chìm xuống biển cả. Những người
lính Biệt Hải reo hò vang dậy chào mừng chiến công của đồng đội. Dẫu
biết rằng Hải Quân Việt Nam ở thế hạ phong về tàu chiến và vũ khí, nhưng
ngay phát súng đầu, HQ 4 Trần Khánh Dư đã nhắc cho giặc Bắc nhớ lại
trận hải chiến kinh hoàng ở cửa biển Vân Đồn năm 1287, Tướng Quân
Trần Khánh Dư đã đánh chìm hàng trăm chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và
tên hải tặc Trương Văn Hổ, mà đã đẩy đạo quân 20 vạn của Thoát Hoan
trên bộ vào thảm cảnh chết đói và hoàn toàn chiến bại. Giao chiến bằng
tàu thường không thắng nỗi bốn chiếc HQ thời Đệ Nhị Thế Chiến của ta,
Trung cộng phải hối hả điều thêm những chiến hạm tối tân Komar trang bị
hỏa tiễn tầm xạ Dù vậy, các HQ của Hải Quân Việt Nam cũng đã hủy diệt
thêm một tàu và làm hư hại hai chiếc khác, trước khi nhận được lệnh rút
ra khỏi quần đảo Hoàng Sa sau hai giờ pháo chiến. Một kế hoạch đánh tập
kích lực lượng địch vài ngày sau đó của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam
được phác họa, nhưng đã không được thực hiện vì nhiều lý do khác
nhau.
Cuộc hải hành bằng xuồng cao su trên đại dương
Ba
ngày trấn giữ Vĩnh Lạc không thấy có Toán Thám Sát nào đến thay thế,
hướng Hoàng Sa đã im tiếng súng mà trên không luôn có nhiều phi cơ rất
lạ bay lượn vòng vòng, Trung Úy Liêm nhận định rằng tình hình ngày càng
rất bất lợi cho đảo Vĩnh Lạc, với một nhúm chiến sĩ ít ỏi như thế này.
Có tin Trung cộng đã điều chiến hạm đến tấn công Cam Tuyền và Vĩnh Lạc.
Từng đợt hải pháo của tàu giặc dội ì đùng xuống một diện tích nhỏ bé của
hòn đảo, rồi bốn chiếc Mig 21 và Mig 23 xuất phát từ đảo Hải Nam bay
đến oanh kích dọn bãi để lính địch đổ bộ. Con số chiến hạm Trung cộng
tham
chiến đã lên đến 40 chiếc. Trung Úy Liêm quyết định chờ đêm tối dùng
xuồng cao su thoát ra khỏi Vĩnh Lạc. Thật không may mắn cho những người
lính cô đơn này, chiếc xuồng cao su lại bị lủng một lỗ nơi miệng cao su
lót đáy, không biết có phải là do bởi mảnh pháo địch, nước biển tràn
vào, các Biệt Hải xé vải nhét lại. Tình thế thật bi đát. Các chiến sĩ
phải ngồi rải chung quanh thành ca nô, tránh ngồi tập trung ở giữa tránh
tình trạng quá nặng. Trong khi quân ta âm thầm chèo ra ngoài khơi thì
bỗng có quang hiệu của tàu Trung cộng gọi trở lại, nhưng Trung Úy Liêm
ra lệnh cho các chiến sĩ tiếp tục hướng mũi ra biển. Thà chết vinh giữa
biển cả, còn hơn là sống nhục trong lao tù cộng sản.
Chiếc
xuống tiếp tục di chuyển về hướng Tây Nam. Sáu mái chèo thay nhau quạt
nước. Một cái mền được dùng làm buồm căng trên một cái cột buồm bằng một
cành tre tìm thấy trên đảo. Sức gió đã đẩy chiếc xuồng ọp ẹp đó xa dần
đảo Vĩnh Lạc. Thêm một mảnh đất của Việt Nam đã lọt vào tay giặc. Tình
hình ngày càng tồi tệ, khi lương thực đem theo đã dần cạn, quân ta phải
hạn chế ăn uống, bi đát đến nỗi mỗi người chỉ có 6 muỗng nước mỗi ngày.
Đến ngày thứ ba, số nước dự trữ chỉ còn có 30 lít, nhưng vì bị sóng nhồi
nên đã bị đổ mất 10 lít, nên đành phải chịu giới
hạn đến tối đa. Đến ngày thứ năm cuộc hành trình, chỉ uống nước mà
không còn thức ăn, chiếc xuồng cao su nhấp nhô trên vùng biển động cấp
5, 6 chỗ bị lủng vẫn luôn luôn là mối đe dọa chết chóc của 15 người lính
đã rất yếu sức. Ngày nắng như nung, lượng nước trong cơ thể bốc hơi
nhanh chóng tạo ra hiện tượng mất nước (dehydration)., đêm thì lạnh buốt
đến tận xương tủy. Chỉ có sức chịu đựng phi thường của những người lính
cứng như thép Biệt Hải mới có thể sống sót qua thử thách này.
Ở
giữa trùng khơi mênh mông không thấy đâu là bến bờ, dưới những cơn
thịnh nộ của thủy thần đại dương, con người bé nhỏ chỉ có thể nguyện cầu
xin được che chở. Thật mầu nhiệm, lời cầu nguyện đó của 15 Biệt Hải
dường nhưng đã được nghe nhận từ cõi thiêng liêng. Theo lời kể của Trung
Sĩ Nguyễn Trọng Tuấn, nhân viên điện tử, lúc đặt chân xuống thuyền,
nhiều Biệt Hài đã khấn nguyện xin cho được an lành trở về với đất liền,
với đồng bào và với quân đội để tiếp tục chiến đấu. Phép huyền diệu đó
đã bắt đầu hiện ra từ ngày thứ sáu, mà tất cả chiến sĩ trên ca nô đều
nhận biết như
nhau.
Theo
Trung Sĩ Tuấn, khi đến vùng biển động, sóng lượn theo chiều ngang rất
nguy hiểm. Kinh nghiệm hải hành cho thấy rằng tàu nào gặp những con sóng
ngang kiểu này cũng đều lắc lư rất dễ sợ. Nhưng có một điều kỳ dị rất
khó giải thích là chiếc xuống lại lướt rất nhẹ nhàng một cách rất bình
thản trên đầu ngọn sóng chết người đó. Hơn thế, nó còn chạy vo vo một
mạch với tốc độ 40 cây số / giờ. Lợi dụng hiện tượng quái lạ này, anh em
Biệt Hải gác mái chèo nghỉ xả hơi. Đặc biệt khi gặp sóng cao thì một
lực nào đó giúp hóa giải sức giật ngaỵ Trung Sĩ Tuấn và nhiều Biệt Hải
đã thấy một cái gì đó không phải thuyền chài, mà nó gần giống như cái
kỳ cá nhú lên khỏi mặt biển, mà họ tin là cá voi, hay cá ông, những vị
thần cứu mạng trong huyền thoại trên biển Nam Hải của giới thuyền bè qua
lại trên vùng biển này. Có những con cá voi bị bão tấp vào bờ chết, đã
được dân chài vùng biển chôn và lập đền thờ để nhớ ơn chúng đã cứu giúp
ghe thuyền lúc hoạn nạn. Nhiều lúc các chiến sĩ nghe thấy nhiều tiếng
lục cục dưới đáy chiếc xuồng ca nô, mái chèo thấy nhẹ hổng. Có lẽ một
chú cá voi lạc loài nào đó tránh sóng bão đã tựa lưng vào cùng tồn tại
với con người, mà nhờ sức mạnh thần kỳ của nó đã đưa chiếc xuồng vượt
qua những con sóng chết. Hay đó có phải là phép nhiệm mầu của tạo hóa
xót thương
những người lính chân chính của một dân tộc tang thương vì nạn xâm lược
của loài ác quỷ cộng sản. Không ai có thể giải thích được sự kiện nàỵ
Nhưng sáu mái chèo kiệt lực không thể nào đưa chiếc xuống đi phom phom
40 cây số giờ như vậy được.
Giữa
cơn bão giật, nhóm chiến sĩ Biệt Hải dường như trông thấy hình dáng một
chiếc thuyền, quân ta vui mừng khấn nguyện cho nó tiến đến gần hơn, thì
thình lình nó quày đầu chạy ngược trở lại. Vài chiến sĩ quá nóng lòng
bèn bắn vài phát súng báo động. Nhưng càng nghe tiếng súng thì chiếc
thuyền đó càng phóng dữ. Chẳng mấy chốc nó đã biến mất giữa những con
sóng. Nhìn lại đã thấy một dải đất mờ, đối chiếu với hải đồ, thì có lẽ
chiếc xuống đã dạt về đến vùng biển Mũi Cù Lao Ré ngoài hải phận Quảng
Nam. Nhưng lưỡi hái của thủy thần vẫn còn treo đung đưa trên đầu,
thấy đất liền đó mà sóng vẫn kéo chiếc xuồng ra xa dần ngoài khơi,
không chèo vào được. Chiến sĩ trên xuồng chắc lưỡi tiếc hùi hụi, nếu
đừng bắn súng cho cá ông sợ chạy mất, thì biết đâu ngài đã đưa anh em
vào gần bờ hơn. Như vậy, Toán Biệt Hải đã được cá ông đưa vào hướng Đà
Nẵng trọn một đêm dài, nhưng định mệnh vẫn còn thử thách chí quật cường
của những người lính Hải Quân. Cuộc hành trình về với tổ quốc tiếp diễn.
Chiếc
xuống càng lúc càng đến gần hải phận Việt Nam Cộng Hòa hơn. Qua đến
ngày thứ bảy, các chiến sĩ Biệt Hải trông thấy nhiều ghe thuyền xuôi
ngược liền bắn súng xin tiếp cứu, nhưng những chiếc tàu này hoặc là
không nghe được tiếng nổ, hoặc là do một lý do nào khác đã chạy lảng ra
xa. Tình trạng sức khỏe của những Biệt Hải trên ca nô đã trở nên rất tồi
tệ, các anh như những cái xác còn cử động là nhờ ở ý chí tìm sống, nước
uống trên xuồng đã hết sạch từ lâu. Qua đến ngày thứ chín cuộc hải hành
chiến sĩ Biệt Hải đã phải uống nước tiểu của mình. Có lúc xuồng
chỉ còn cách bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi chừng 100 hải lý,
nhưng không thể nào chèo vào được, ca nô vẫn bị cuốn trở ra ngoài khơi.
Chiếc buồm được điều chỉnh về hướng Đông Bắc để gió có thể thổi tạt các
anh về hướng Tây Nam, hy vọng tấp vào được gần bờ hơn. Mỗi đêm các chiến
sĩ Biệt Hải có trông thấy nhiều máy bay lượn vòng thật cao, có lẽ đang
hoạt động không ảnh, vì ánh sáng cứ lóe lên từng hồi chiếu xuống mặt
biển. Mặc dù không biết những phi cơ này thuộc quốc tịch nào, nhưng quân
ta vẫn bám víu vào một hy vọng mỏng manh, nên đã bắn lên nhiều hỏa hiệu
để đánh dấu mục tiêu cùng điểm đứng của chiếc ca nô. Nhưng tất cả đều
vô hiệu, có lẽ vì phi cơ bay với vận tốc nhanh và quá cao nên không thể
thấy
rõ những trái sáng.
Sự
cố gắng đó cuối cùng rồi cũng được đền bù, ngày thứ mười, chiếc xuống
đã giạt vào hải phận tỉnh Bình Định, cách đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Phước
Ninh, quận Nhơn Bình chừng 30 hải lý. Với khoảng cách này cái sống đã
hiện ra rõ nét, nhưng chiếc xuồng vẫn còn nằm ngoài hải phận quốc tế.
Trung Úy Lâm Trí Liêm, Trưởng Toán Biệt Hải, là người còn có thể đứng
vững trong tình thế tuyệt vọng nhất, anh thật xứng đáng là một cấp chỉ
huy tài ba, mà đã cứu được mạng sống của tất cả đoàn viên. Anh đã trông
thấy có ba chiếc ghe đánh cá đang hoạt động gần đó, mừng quá anh
bắn mấy phát súng cầu cứu. Hai chiếc ghe đầu tiên hoảng sợ bỏ chạy mất,
nhưng chiếc ghe thứ ba, trời ơi, nó đã lừng lững tiến đến. Các chiến sĩ
Biệt Hải đã có thể trông thấy những khuôn mặt Việt Nam đen rám vì nắng
gió biển khơi, những ánh mắt xúc cảm và những nụ cười quá thánh thiện.
Toán ngư phủ trên ghe vội vã ném dây cột chiếc xuồng cao su kéo về Qui
Nhơn. Lúc đó là khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 21.1.1974. Những người lính
Biệt Hải sẽ nhớ mãi cái ngày hồi sinh này.
Trong
lúc kéo xuồng cao su trở vào hải cảng Qui Nhơn, thì các ngư phủ đã giúp
chừng phân nửa số chiến sĩ leo lên thuyền của họ, số còn lại quá mệt
mỏi đành phải nằm nghỉ dưới xuồng. Hạ Sĩ Nhứt Nguyễn Văn Duyên, nhân
viên Quản Kho hoàn toàn kiệt sức vì hiện tượng mất nước và thiếu ăn, anh
đã từ từ chìm vào cơn kích sốc, khi được đưa lên thuyền đánh cá, thì
anh đã nhắm mắt ra đi.
Điều dưỡng tại Quân Y Viện Qui Nhơn
Hải
Quân Trung Tá Nguyễn Ngọc Tĩnh, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn
khi hay tin một chiếc ghe đánh cá đã vào gần đến hải cảng Qui Nhơn với
15 chiến sĩ Biệt Hải, đã lập tức cho tàu ra đón tại ngọn hải đăng đưa
vào Căn Cứ và chờ phương tiện chở các anh về Quân Y Viện Qui Nhơn. Toán
Biệt Hải đã được chở vào và được nằm điều dưỡng trong Trại Nội Thương 9.
Bây giờ, các Biệt Hải đã đi đến cuối cuộc hành trình của mình sau hơn
mười một ngày đêm tham dự cuộc hải chiến Hoàng Sa lịch sử. Nhiều chiến
sĩ mê man nằm thiêm thiếp, mặc dù đã được các nhân viên Quân Y
truyền cho loại huyết tương màu vàng để bổ sung nguồn protein, khoáng
và nước bị mất. Các anh đã được bón cho những loại thức ăn nhẹ. Nửa căn
phòng của Trại Nội Thương 9 đã được dành riêng cho nhóm 14 chiến sĩ Biệt
Hải, dưới sự chăm sóc tận tụy của Quân Y và đồng đội thuộc Căn Cứ Hải
Quân Qui Nhơn.
Y
Sĩ Trung Tá Nguyễn Xuân Cẩm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Qui Nhơn đích
thân ra lệnh cho nhân viên Quân Y dành cho các Biệt Hải sự chăm sóc đặc
biệt, vì các anh xứng đáng được đối xử như vậy. Mỗi ngày, mỗi chiến sĩ
được truyền một chai huyết tương, uống sữa trứng gà ngày hai lần, cam
vắt hai lần, uống nước súp xương thịt. Cuộc điều trị sang đến ngày
1.2.1974 thì các Biệt Hải được ăn cháo nấu với tim và cật, tình trạng
sức khỏe của các anh đã rất khả quan. Những con người thép mà đã từng
vượt qua chương trình huấn luyện “địa ngục” của Người Nhái, chẳng mấy
chốc đã
có thể ngồi dậy nói chuyện thoải mái và vui vẻ với tất cả những phái
đoàn quân và dân tấp nập kéo nhau vào thăm hỏi, tặng quà khích lệ. Đặc
biệt, các chiến sĩ Biệt Hải luôn nhớ ơn Bác Sĩ Cẩm Chỉ Huy Trưởng đã túc
trực ngày đêm săn sóc các anh.
Phái
đoàn đầu tiên đến thăm các chiến sĩ Vĩnh Lạc, Hoàng Sa, do Hải Quân Đại
Tá Trịnh Quan Xuân, Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, đã dùng trực thăng đến
an ủi và ủy lạo các anh với nhiều tặng vật trong ngày 31.1.1974. Đến 4
giờ chiều cùng ngày, Đại Tá Hoàng Đình Thọ, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu
Trưởng Bình Định hướng dẫn một phái đoàn khác vào thăm. Sang ngày
1.2.1974, đến lượt Hải Quân Đại Tá Nguyễn Đức Vân, Trưởng Phòng Kế Hoạch
Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đại diện Đề Đốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải Quân,
đã đến thăm hỏi chiến sĩ trong buổi chiều và trao tặng mỗi anh số tiền
5,000 đồng. Món tiền tuy nhỏ nhưng nói
lên cái tình giữa chiến hữu huynh đệ với nhau, và nó còn bày tỏ lòng
tri ân của người hậu phương dành cho những chiến sĩ ở mãi tận ngoài đại
dương.
Huy chương trao tặng cho những ân nhân
Một
trong những cuộc viếng thăm có ý nghĩa nhất do Phó Đề Đốc Tư Lệnh Phó
Hải Quân, hướng dẫn buổi sáng ngày 1/2/1974. Tư Lệnh Phó đã đại diện Tư
Lệnh Hải Quân đến thăm hỏi, khích lệ và ủy lạo 14 chiến sĩ Biệt Hải. Tất
cả các Biệt Hải đều vinh dự được tuyên dương công trạng, hãnh diện nhận
mỗi người một huy chương cao quí Anh Dũng Bội Tinh. Phòng Tổng Quản Trị
Hải Quân cũng trình Bộ Tư Lệnh Hải Quân đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu thăng
cấp đặc cách cho tất cả 14 Biệt Hải.
Không
quên những người ngư phủ đã cứu sống chiến sĩ Hoàng Sa, phái đoàn của
Tư Lệnh Phó dùng tàu nhỏ di chuyển sang Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn để thay
mặt chính quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bày tỏ lòng tri ân với
năm công dân Việt Nam Cộng Hòa. Năm vị ân nhân này đã cảm xúc nhận năm
chiếc huy chương cao quí của Hải Quân là Hải Vụ Bội Tinh. Buổi lễ tri ân
được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng. Có thể là năm người ngư dân
bình thường và vô danh này nghĩ rằng việc cứu sống những người lính Việt
Nam Cộng Hòa là một việc bình thường trên biển cả với nhau. Nhưng chính
là ở
nghĩa cử này đã nói lên được một ý nghĩa cao cả, thắm thiết từ tận đáy
lòng của họ. Đó là Tình Quân Dân gắn bó mà người lính gian nan của chúng
ta qua những năm tháng phơi xương trải thịt chiến đấu bảo vệ đất nước
và dân tộc đã chiếm được mối tình cảm của đồng bào ở hậu phương. Hải Vụ
Bội Tinh vẫn chưa thấy đủ lòng tri ân, Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thì,
Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, đã làm tờ trình xin Bộ
Tổng Tham Mưu ân thưởng cho ông Dư Thanh Long, chủ nhân chiếc thuyền
đánh cá mang số 3874, huy chương Nhân Dũng Bội Tinh. Cuộc trao gắn chiếc
Bội Tinh sẽ được tổ chức ngay sau khi nhận được Quyết Định của Bộ Tổng
Tham Mưu. Ngoài ông Long là chủ nhân chiếc thuyền, còn lại là những thủy
thủ Dư Thanh
Dũng, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngọc, Lý Luông, tất cả đều cảm thấy sung sướng
khi chính các anh đã cứu vớt kịp thời các chiến sĩ Biệt Hải. Câu chuyện
tàu 3874 tìm thấy chiếc xuồng ca nô mà trên đó 14 chiến sĩ của chúng ta
đã gần như kiệt lực đã do chính ông chủ tàu kể lại như sau:
Ông
Dư Thanh Long đang lái chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi Qui Nhơn, lúc đó
khoảng 12 giờ 30 trưa. Ông Long chợt nhìn thấy một điểm đen ngoài xa,
cách chiếc thuyền đánh cá của ông độ hai cây số. Lúc đầu ông Long tưởng
là dân chài đánh cá gặp tai nạn nên dùng thúng chai chèo vào đảo Cù Lao
Xanh, nhưng khi đến gần ông nhận thấy không phải, nên đã gọi những thủy
thủ thức dậy để sẵn sàng cứu người, vì lúc đó anh em đang ngủ. Chiếc tàu
đánh cá càng đến gần, thì nhóm ông Long đã có thể thấy rõ nhiều người
ăn mặc rất lôi thôi, nếu không muốn nói là tơi tả, nhiều cánh tay đưa
cao lên
những khẩu súng. Là một người đánh cá từng trải và gan dạ, ông Long cẩn
thận cho tàu của mình cặp sát vào chiếc xuồng cao su, ông đã nhận thấy
trong số người lạ mặt này những bộ quân phục quen thuộc, nhưng tất cả
kiệt sức nằm rũ riệt trong xuồng. Ông Long nghiêng mình hỏi vói xuống,
rằng lại sao lại đến nông nỗi như thế. Trung Úy Liêm còn tỉnh nhất đã
gào to lên:
- Tụi tôi đánh Hoàng Sa thoát về đây, xin cứu nhanh và đưa về Căn Cứ Hải Quân.
Ông
Long phái mấy thủy thủ khỏe mạnh nhất nhảy xuống chiếc ca nô bồng lên
từng người, những chiến sĩ nào còn có thể leo được thì tự leo lấy, nhưng
phần lớn các anh đều phải nhờ sự giúp sức của các ngư dân. Khi đã leo
lên được hết trên tàu, các Biệt Hải chỉ còn có thể nằm sải tay ra thở
dốc và đòi nước như điên. Nhân có ấm nước đang sôi, anh em thuyền chài
thi nhau thổi cho nguội bớt và trao cho các Biệt Hải nhấp từng ngụm cầm
chừng. Đồng thời, các thủy thủ cũng dùng số thuốc cấp cứu mang theo trên
tàu để cho các chiến sĩ dùng tạm. Nhận thấy tình trạng các Biệt Hải quá
yếu, ông Long gọi bốn thủy thủ đem nồi cháo hồ đổ cho mỗi người nửa
chén. Được một lúc, thấy những người lính có vẻ tươi tỉnh hơn, ông lại
cho người đổ cháo tiếp, cứ mỗi nửa giờ đút cháo một lần. Tình hình sức
khỏe các anh đã khả quan rất nhiều, trong lúc chiếc thuyền chỉ còn cách
hải cảng Qui Nhơn chừng mười cây số. Ông Long đã rất lấy làm xót xa là
đã không cứu được Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên, vì khi anh được khiêng lên
tàu, thì thân thể của anh đã bị tê liệt, anh đang thở những hơi cuối
cùng. Chiếc ghe đánh cá đã xả hết tốc lực phóng vào bờ, với một hy vọng
mỏng manh chạy đua với thời gian và thần chết, nhưng đã không còn kịp
nữa rồi. Biệt Hải Nguyễn Văn Duyên đã anh dũng đền nợ nước. Chắc anh
linh của anh
cũng đã thanh thản bốc lên trên khoảng trời trong xanh và trên mặt sóng
của quê hương. Anh đã về đến hải phận Việt Nam và đã ra đi trong những
giọt nước mắt nghẹn ngào của anh em.
Một
vài khoảnh khắc sau, một chiếc giang đỉnh của Căn Cứ Hải Quân Qui Nhơn
đi tuần đã bắt gặp chiếc thuyền, được biết tự sự, đã khẩn cấp gọi về Bộ
Chỉ Huy để chuẩn bị phương tiện cấp cứu. Nhiều chiến đỉnh xuôi ra khơi
để hộ tống chiếc tàu đánh cá tiến vào Căn Cứ. Cuộc hành trình của 15
Biệt Hải vượt thoát từ mặt trận Hoàng Sa đã chấm dứt. Tuy rằng các anh
và những chiến hạm HQ 4 Trần Khánh Dư, HQ 5 Trần Bình Trọng, HQ 10 Nhật
Tảo và HQ 16 Lý Thường Kiệt đã phải đớn đau rút bỏ Hoàng Sa, nhưng ít
nhất Hải Quân Trung cộng đã kinh hãi khi phải đối đầu với cơn phẫn nộ
của hậu duệ Ngô Vương
Quyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, dù chúng có tạm thời chiếm được
Hoàng Sa nhưng cũng đã phải trả cái giá rất đắt. Hai chiến hạm bị chìm
và hai chiến hạm bị hư hại.
Lịch
sử bốn ngàn năm chống giặc ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam đã
chứng minh rằng, chưa từng có đế quốc Hán tộc nào có thể hùng cứ lâu
dài trên mảnh đất Hoa Lục mà không bị sụp đổ. Trung cộng không ra ngoài
định lý ấy. Nền kinh tế của nó hiện nay đang phụ thuộc rất nặng nề vào
tư bản Hoa Kỳ, đó là cái tiền đề để dẫn đến một cuộc sụp đổ không tốn
một giọt máu kiểu Liên Sô năm 1989. Trung cộng đang giẫm vào vết xe đổ
của Liên Sô qua những cuộc chạy đua võ trang và không gian với người Mỹ,
ấy vậy mà bọn chúng đang rất kiêu hãnh đẩy mạnh tốc độ
cuộc thi tài. Cũng tốt cho nhân loại. Càng chạy nhanh thì cái hố địa
ngục càng đến gần hơn. Rồi cũng có một ngày quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa sẽ trở về với dân tộc Việt Nam. Đến lúc đó, thế hệ con cháu Việt Nam
sẽ giở lại những trang sử hào hùng của cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày
19.1.1974, và sẽ thêm một lần cúi đầu ngợi ca ông cha của mình đã đánh
giặc phương Bắc kiệt liệt đến như thế nào.
Phạm Phong Dinh
No comments:
Post a Comment