Phần V
TRỞ VỀ TỪ CÕI CHẾT
(1980-l994)
22. NHỮNG NHÀ TÙ Ở THANH HÓA.
Đối với đa số lính biệt kích, Phong
Quang thể hiện một giai đoạn thay đổi rõ rệt. Một thời họ đã từng là những tên
gián điệp biệt kích bí ẩn đáng ghét hơn là đáng sợ. Sự đầu hàng của Cộng hoà
Việt Nam và việc chuyển hàng nghìn tù nhân dân sự và quân sự của Nam Việt Nam đã
làm thay đổi cách nhìn của miền Bắc.
Một số lính quân đội Nam Việt Nam ở
Phong Quang, Hà Tây và Nam Sơn còn rất ngạc nhiên khi thấy rằng hàng trăm tên
biệt kích còn sống sót. Khi những lính Nam Việt Nam trở về nhà và sau đó rời
khỏi Việt Nam, họ thường viết về những người lính biệt kích đã không chịu
chết…
Đầu năm
1982, nhóm cán bộ An ninh Quốc gia đã đến Thanh Phong để phỏng vấn một số biệt
kích đã ở Long Thành giữa những năm 1960. Trọng tâm thẩm vấn là hiểu biết của
lính biệt kích về Võ Đại Tôn, thành viên cũ ban lãnh đạo kỹ thuật chiến lược, đã
ở Long Thành trong giai đoạn đó. Tôn đã bị bắt ở Lào trong vụ xâm nhập "kháng
chiến" xuất phát từ Thái Lan. Sau đó chính phủ Lào đã chuyển anh ta cho Việt Nam
và hắn được đưa ra Hà Nội để xét xử.
Trong
cuộc họp báo, Tôn đã gây bực tức cho những người bắt anh ta bằng việc tấn công
Chính phủ Hà Nội thay cho việc thể hiện thái độ ăn năn. Cuộc họp báo đã phải
hoãn lại và Tôn đã bị đưa trở lại biệt giam. Những người lính biệt kích cũng đã
đóng góp chút ít trong cuộc phỏng vấn của các quan chức Hà Nội.
Cuối năm 1979 những tù nhân ở Thanh
Phong dần dần được tha. Mùa hè năm 1982 đa số lính biệt kích đã được tha về nhà.
Trước khi tha, nhân viên An ninh Quốc gia đã nói với nhiều người trong số họ và
thông báo những lợi ích tiếp tục của họ đối với Nhà nước. Họ đã nói cho một số
người được lựa chọn phải chuẩn bị để trong tương lai "đón khách" bằng các tín
hiệu đặc biệt người ta mong đợi. Những người biệt kích này sẽ làm những gì họ
được yêu cầu.
Tháng 12 năm đó, những người còn lại
ở trại K1 được chuyển về trại giam Trung ương ở huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Mùa
thu năm 1987, 7 biệt kích cuối cùng ở đó rốt cuộc đã được phóng thích trở về
nhà, trong số họ có Nguyễn Hữu Luyến, nhân vật nòng cốt cứng rắn đến
cùng.
Cho đến năm 1989 phần lớn phạm nhân
cải tạo lao động ở Thanh Lam đã được tha. Một số người dân tộc H'mông được tuyển
chọn ở Lào để hoạt động trong các toán gián điệp đầu năm 1962, không có nhà cửa,
gia đình nên tiếp tục ở lại trại. Thêm hai người nữa đã chết ở đó năm 1993. Một
lính biệt kích được tha theo lời hứa danh dự đối với trại cải tạo lao động đã kể
lại việc trở về nhà của anh ta sau 15 năm lao động nặng nhọc.
Tôi hỏi anh ta: "Anh cảm thấy như
thế nào?"
"Cảm thấy như thế nào ư? Anh không
thể tưởng tượng được".
"Ấy! Tôi muốn nói rằng gia đình anh
phản ứng như thế nào?"
Người lính biệt kích kể lại chuyện
này:
"Tôi nhớ khi trở về đến ga tàu Sài
Gòn, lúc đó ban đêm và tôi biết không thể đi bộ về ngay với mẹ tôi được. Tôi đã
không liên lạc gì với bà 15 năm qua. Chúng tôi được phép viết thư về nhà sau năm
1976 song đa số chúng tôi nghi ngờ rằng đó là âm mưu của Bộ Nội vụ vì vậy chúng
tôi chẳng bao giờ viết thư về nhà. Một số chúng tôi được thăm thân ở trại nhất
là những người có người thân ở miền Bắc. Tôi nhớ Nguyễn Thái Kiên đã được anh
mình là Nguyễn Thái Phiệt đến thăm, mọi người nói rằng ông này là biên tập viên
báo Quân đội nhân dân. Đa số chúng tôi không muốn gia đình chi phí cho chuyến đi
Bắc để thăm chúng tôi. Chúng tôi có thể giấu diếm gửi thư qua những người thăm
của họ. Trong trường hợp của tôi, tôi không viết thư về nhà.
Tôi biết nếu tôi đi ban ngày có thể
sẽ gây ngạc nhiên lớn. Anh phải hiểu là suy nghĩ và cách hành động của tôi được
thực hiện theo một thực tế là tôi đã xa nhà đi lao động vất vả 15 năm. Tôi không
thể tả lại được và không ai có thể tả được. Tôi đi bộ từ trung tâm Sài Gòn về
nhà mẹ tôi. Tôi ngủ ngoài đường, ngay trong trường hợp này tôi cũng đã chạy đến
trạm tuần tra kiểm soát. Cuối cùng tôi chẳng có giấy tờ gì và giấy thông hành
của tôi đã hết hạn. Tôi tìm thấy một quán cà phê nhỏ đối diện với nhà mẹ tôi.
Lúc đó khoảng vài giờ trước lúc rạng đông và tôi ngồi ở đó.
Lúc tảng sáng thì mẹ tôi ra khỏi
nhà, tôi vẫn ngồi đó và quan sát bà, tôi chú ý nhìn xem có người nào khác ở
chung quanh, tôi không nhìn thấy ai và tin rằng là an toàn.
Mẹ tôi bắt đầu đi xa khỏi nhà và tôi
đi theo rất nhanh cho đến khi đến cạnh bà, tôi đi bộ song song cùng với bà mấy
bước, chẳng nói gì, tôi không tin rằng bà nhận ra khi tôi ở đó một lúc nhưng tôi
đoán là bà đã cảm nhận thấy sự có mặt của tôi và điều đó làm bà giật mình, bà
dừng lại vài giây. Tôi nhìn bà mà nói "Mẹ ơi, con đây mà".
Mẹ tôi chỉ nhìn chằm chằm tôi trong
mấy giây, sau đó túm chặt tay tôi và dắt tôi trở về nhà như hồi tôi còn con nít
và bà đã đưa về nhà khi tôi làm điều gì đó xấu.
Bà đưa tôi đến buồng trước, tới
trước bàn thờ gia tiên. Có một bức ảnh của cha tôi ở chỗ dành cho những người đã
chết, bên cạnh đó là ảnh của tôi. Mẹ tôi nhìn tôi, sau đó lại nhìn bức ảnh, bà
nhìn tôi lần nữa sau đó lại nhìn bức ảnh. Hồi sau bà nói: "Đó là con, mẹ tưởng
là con đã chết".
Sau đó mẹ tôi hỏi tôi không nhiều.
Tôi ở nhà, còn cái gì nữa cần phải nói? Nguyễn Văn Hinh chậm rãi quay đi nhìn ra
cửa sổ không nói lời nào, không người nào cần đến.
PHẦN
KẾT
Khi viết cuốn này thì hơn một trăm
lính biệt kích trước đây đã được tái định cư ở Mỹ. Gần hai trăm người sống sót
cùng với hàng trăm mẹ goá con côi của những người đã chết vẫn còn ở lại Việt
Nam. Mặc dù có một số người muốn ở lại, hầu hết trong số họ muốn rời khỏi Việt
Nam.
Để đủ tiêu chuẩn được nhập cư vào Mỹ
theo chính sách hiện hành thì những người lính biệt kích trước đây phải ở tù ít
nhất là ba năm sáu tháng sau 5/1975. Cơ quan nhập cư và nhập tịch (INS) kết luận
rằng bất cứ trường hợp ở tù nào trước thời hạn đó đều được coi là tù nhân chiến
tranh bị giam giữ trong thời chiến, trên cơ sở INS vận dụng chính sách của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ. Khi viết cuốn này, INS không tin rằng hầu hết lính biệt kích
đang ở Việt Nam vẫn còn bị giam giữ 3 năm sau tháng 5 năm 1975 và tin là họ đã
được giảm án tù trước thời hạn đó. Hầu hết những người làm đơn xin phỏng vấn
nhập cư đều bị giám đốc khu vực của INS ở Băngkok từ chối.
Nguyễn Hữu Luyện, người tổ chức và
là cố vấn cho toán HECTOR là một trong những lính biệt kích cuối cùng được phóng
thích sau 21 năm lao động khổ sai. Anh ta cố trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền và
như dự đoán đã bị bắt. Đầu năm 1992, anh ta đã được phóng thích và được phép rời
Việt Nam để tái định cư ở Mỹ. Hiện tại Luyện và vợ anh ấy sống ở Đông Boston,
bang Massachusetts. Anh ta học tiếng Anh và dạy tiếng Việt. Thế là cố gắng để
sinh tồn.
Một trong bảy người cuối cùng được
phóng thích khỏi lao động khổ sai là một người dân tộc Mường tên là Quách Rạng,
người đã tới ngôi nhà mới của anh ta tại Chamblee, bang Georgia vào năm 1992.
Ngọc Ban, vợ Rạng là một người phụ nữ đầy nghị lực, đã nói chuyện với một đám
đông tụ tập khoảng 400 người vợ và thành viên của các gia đình người Việt Nam ở
địa phương tại Atlanta, Georgia vào tháng 7/1992. Chị ấy đã đề cập đến việc
người ta nói rằng chồng chị đã mất tích. Mặc dù chị vẫn được trả tiền tuất nhưng
chị vẫn tiếp tục chờ chồng trở về. Chị ấy tin chồng chị sẽ trở lại.
Thành viên của các toán từ CASTER
đến RED DRAGON đã vượt Thái Bình Dương và định cư khắp nơi trên nước Mỹ, từ
Boston đến Seatle. Trong số họ có Mai Nhuệ Anh, chỉ huy toán HECTOR 2; Quách
Nhung, linh hồn sống sót của toán HORSE; Trương Tuấn Hoàng, điệp viên cuối cùng
được cử đi bổ sung cho toán REMUS: và Hà Văn Chấp, chỉ huy toán CASTER; người
cùng toán của anh ta Đinh Anh là những thành viên của toán đầu tiên được đưa vào
Bắc Việt Nam theo kế hoạch của CIA nhằm tiến hành hoạt động điệp vụ chống Hà
Nội. Dù sao, trong thế giới ngày nay người ta cũng chưa biết liệu Washington có
giao một nhiệm vụ thiện chí nào cho các toán đó không.
Điệp viên đơn trước đây là Trần Quốc
Hùng đã thực hiện một chuyến xâm nhập. Hưng đã viết về những kinh nghiệm ở tù
của mình và của đồng đội trong ba cuốn sách với đầu đề là "Thép đen" (Black
Steel). Các chương của cuốn sách đã được đọc trên đài phát thanh tiếng Việt ở
California. Người ta đã chú ý theo dõi các buổi phát thanh này trong khi các
chương trình nhạc kịch trên ti vi vào buổi chiều thì bị quên lãng. Lê Văn Bưởi
một điệp viên đơn cũ đã tới Mỹ năm 1993. Khi viết cuốn này thì Bưởi đang điều
trị bệnh ung thư ở Utica New York. Anh ta bị ung thư vòm họng và có thể không
sống nổi để đọc cuốn sách này. Trước khi rời khỏi thành phố Hồ Chí Minh năm
1993. Bưởi đã được điều trị bằng phương pháp chạy tia ở một bệnh viện địa
phương. Theo những người làm công tác xã hội ở Utica thì Bưởi không chỉ chạy tia
quá nhiều ở thành phố Hồ Chí Minh mà phương pháp điều trị này còn lan ra cả toàn
bộ đầu của anh ta. Trí nhớ của Bưởi mất dần và đầu bị đau thường xuyên. Anh ta
vẫn cố giải thích những điều anh ta và những người yêu nước của mình đã cố làm
trong khoảng 35 năm nay. Anh ta mong rằng khi chết không ai phải bận tâm gì
cả.
Lê Văn Ngung, trước đây là chỉ huy
của toán HADLEY, hiện nay làm nghề chạm trổ thiếc và tạo khuôn mẫu cho Kirk và
Stieff ở Baltimore, bang Maryland. Công việc anh ta làm là một công việc nghệ
thuật đầy kiên nhẫn. Vũ Viết Tinh, một thành viên trong toán hiện nay là người
gác cổng của bệnh viện ở Indiana và đã lấy vợ hồi tháng 12/1994.
Nguyễn Không, người đã bị bỏ rơi
trên bãi biển cùng với các thành viên khác của toán NAUTILUS, hiện nay làm nghề
đánh bắt tôm cá ở Vịnh Mexico chứ không phải hoạt động gián điệp ở Vịnh Bắc Bộ.
Mỗi lần trở về thăm nhà ạnh ta lo ngại vợ mình lại có mang thêm lần nữa. Tôi nói
với anh ta điều đó có thể xảy ra bởi vì ăn phải nước ở New Orleans. Anh ta cười
nhưng tỏ ra không tin điều tôi nói. Cả hai chúng tôi đều hiểu là phải làm gì đó
để vợ anh ta gần gũi anh ta hơn. Không là chồng thứ hai của cô ta, người chồng
thứ nhất của cô ấy bị súng máy bắn chết trước mặt cô ta khi họ cố chạy trốn bằng
thuyền khỏi miền Trung Việt Nam.
Bùi Minh Thế thuộc toán BECASSINE
trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền. Một sĩ quan quân đội Nam Việt Nam cũ bảo anh ta
trở lại Việt Nam và tham gia vào lực lượng mà anh ta gọi là "kháng chiến". Thế
đã từ chối và chuyển đến ở Henderson Louisiana. Đã nhiều năm nay vợ chồng Thế đã
đoàn tụ sau hàng chục năm xa cách. Những ngày đó anh ta nằm liệt giường và có
thể không bao giờ biết được sự ngưỡng mộ của tôi đối với dũng khí của anh
ta.
Đặng Công Trình chỉ huy phó toán
SCORPION, một người kiên cường nhất trong toán những người chống đối trung kiên,
hiện đang làm việc tại một cửa hàng ở California. Phần lớn những công nhân cùng
làm việc với Trình không biết gì về quá khứ của anh ta.
Thuý, vợ của Trịnh Văn Truyền, một
dân chài cũ thuộc toán NAUTILUS 3, di cư cùng chồng đến Biloxi, Mississippi và
Truyền đã trở lại cuộc đời trên biển. Thuý đã bị bắn ở New Orleans, Louisiana
vào ngày 31/7/1990 trong một vụ cướp giật đang tìm kiếm tiền mua thuốc phiện.
Chúng chỉ giật được của cô ta một cái ví trống rỗng. Cô ấy đã có mang 7 tháng,
đứa trẻ chưa sinh ra bị giết bởi một viên đạn do bọn cướp bắn ra. Cô ta được cứu
sống nhưng không bao giờ có thể có con được nữa. Mới đây Truyền lao vào con
đường nghiện ngập và gọi cho tôi từ bệnh viện. Truyền nói với tôi là Truyền gần
như bị cắt cụt một ngón tay. Cuộc sống trên Vịnh Mexico nhũng ngày đó thật khó
khăn. Nghề đánh bắt tôm không đưa lại hiệu quả gì cả. Chúng tôi nói chuyện một
lúc và điều đó dù làm cho Truyền cười lên được một tý. Vợ Truyền là một người
rắn rỏi nhưng không kiên cường rắn rỏi bằng người chồng của chị ấy lúc trong
tù.
Một trong những người trốn khỏi Việt
Nam đầu tiên là Nguyễn Văn Hinh, một thành viên của toán ATILLA. Ở Singapore anh
ta bị từ chối tái định cư ở Mỹ. Mặc dù vậy anh ta đã nói với các quan chức lãnh
sự Mỹ về thời gian ở trong tù. Họ không đơn thuần tin anh ta và còn nghi rằng
anh ta là một tên tội phạm của miền Bắc Việt Nam giả danh một người nào đó đã
chết. Trong khi ở trại tị nạn tại Singapore Hình đã gặp một người Việt Nam khác,
một ni cô cũ bị cấm không được hành đạo ở Việt Nam sau năm 1975. Hai người đã
cưới nhau và tái định cư ở Hà Lan. Họ đang xây đắp một tổ ấm gia đình. Hinh
thường không hay viết thư. Anh ấy giải thích rằng anh ta phải viết quá nhiều bản
tự kiểm điểm trong nhà tù. Tôi nghĩ rằng tôi hiểu được điều đó.
Trần Văn Tứ và Nguyễn Văn Lực đang ở
Úc. Tứ bị sẹo đầy hai mắt cá do bị cùm quá chặt trong thời gian ở tù. Lúc đó Tứ
gần như sắp chết. Jessica Martinel, giọng nói quen thuộc với nhau trên điện
thoại, nhìn vào bức ảnh mắt cá chân anh ta và muốn quăng nó đi khi biết rằng
những mắt cá chân đó bị biến dạng gần như mãi mãi. Tôi muốn kể cho cô ta toàn bộ
câu chuyện về mảnh xương mà đồng đội của Tứ đã tìm thấy từ mắt cá vỡ của anh ta
mà anh ta đã giữ từ bao năm nay-một bùa hộ mệnh đã giúp anh ta sống sót. Bây giờ
chị ấy có thể hiểu được điều đó.
Thỉnh thoảng người ta kể về những
mẩu chuyện của những người thuộc nhóm quan sát và nghiên cứu của trợ lý chỉ huy
quân sự và những đồng nghiệp người Việt Nam của họ. Đó là những người như Mai
Văn Học và Hoàng Văn Chương thuộc toán STRATA. Lâu Chi Trân, Châu Hênh Xương, Lý
Si Lau, Vũ Đức Gương hoặc những người nhái dũng cảm khác đã từng cưỡi sóng dữ
với tốc độ gần 50 dặm/giờ, vượt qua Vịnh Bắc Bộ trong tiếng động của các lực
lượng tuần tra ngư lôi đã báo cho quân địch biết rằng những cư dân từ địa ngục
đang đến.
Năm 1986, Vũ Đức Gương đề nghị trả
khoản tiền còn nợ anh ta. Năm tiếp theo toà án liên bang giải đáp những ý kiến
tranh luận của Bộ Quốc phòng và đã đưa ra một trường hợp tương tự trước đó trong
một vụ khiếu kiến liên bang năm 1865 để từ chối đề nghị bồi thường của Gương về
khoản đã ngồi trong nhà tù Bắc Việt Nam gần 20 năm. Lưu ý kiến của toà án và
quan điểm của Bộ Quốc phòng thì thực tế là những chi tiết về quá trình hoạt động
của Gương vẫn được đánh giá cao. Vụ án kết thúc.
Đa phần những người sống sót đã định
cư và cố gắng vun đắp cho cuộc sống gia đình ở những mức độ thành công khác
nhau. Thỉnh thoảng họ lại tụ họp với nhau quanh một chai Whisky và kể về thời
gian trước đây, về những người bạn tù đã chết và những người trung thành. Khi
bọn họ vào tù thì hầu hết là còn độ tuổi hai mươi. Sau hai mươi năm hoặc hơn,
bây giờ họ đã già và thấy chẳng có gì là sai khi tán tỉnh những cô gái trẻ hơn
họ hai mươi tuổi. Họ nhuộm tóc và làm trẻ lại một vài tuổi. Chẳng ai thấy ngại
ngùng. Phần lớn họ sẽ trở thành những công dân có ích. Một ngày nào đó khi lớp
con cháu đọc về họ, họ sẽ hiểu về cha ông mình nhiều hơn những kỷ niệm mờ nhạt
của những năm dài trong quá khứ đưa lại.
Một số ít trong những người lính
biệt kích không gặp may mắn lắm. Hoàng Ngọc Chính, Đoàn Phương, Nguyễn Văn Lý đã
vỡ mộng làm quan. Họ cố chạy trốn khỏi Việt Nam, Phượng và Lý chạy bằng thuyền
còn Chính thì đi đường bộ qua Campuchia. Chẳng bao giờ được gặp lại họ
nữa.
Lê Trung Tín thuộc toán RED DRAGON
từ Trung Quốc quay trở lại. Hiện nay anh ta đang cố thuyết phục các phỏng vấn
viên đầy nghi ngờ của cơ quan nhập cư và nhập tịch ở thành phố Hồ Chí Minh rằng
anh ta là người được quyền đó. Tín và người bạn đồng hương của anh ta là Voòng A
Cầu đã làm những gì mà người lính làm. Họ đã trốn và là hai người đầu tiên chạy
khỏi Bắc Việt Nam vẫn còn sống. Cơ quan nhập cư và nhập tịch cho rằng họ đã
không đủ thời gian ở trong tù để được phân loại nhập cư vào Mỹ.
Một người kém may mắn hơn là Hoàng
Đình Mỹ, một thành viên của toán HECTOR. Tháng 12 năm 1984 Mỹ đã đứng trước vành
móng ngựa của toà án nhân dân thành phố HỒ Chí Minh. Toà đã tuyên án các thành
viên của một nhóm kháng chiến do một người Việt Nam ở nước ngoài tại Pháp đứng
đầu tên là Lê Quốc Tuý. Nhóm này đã bị bắt trong khi đang hoạt động ở Nam Việt
Nam, có lẽ là ngay sau khi từ cái gọi là căn cứ của họ ở Thái Lan xâm nhập vào
Nam Việt Nam. Thông tin được đưa ra công khai trong thời gian xử án đã cho thấy
rằng Bộ Nội vụ Việt Nam đã xâm nhập vào cái gọi là "tổ chức kháng chiến" của Lê
Quốc Tuý vài năm trước đó, và đã thực sự kiểm soát được tổ chức này. Vào năm
1995 Mỹ vẫn còn trong tù ở Nha Trang.
Mỹ đã rời nhà tù Thanh Lâm vào năm
1981 và trở về nhà tại miền Nam Việt Nam trước khi chạy sang Thái Lan. Một trong
những cộng tác viên của Tuý ở Thái Lan gọi tên "đại tá Giang Nam" công khai
tuyển mộ Mỹ trở về trong một tuần thì bị bắt vào năm 1982. Trong quá trình xét
xử anh ta, bên nguyên đã đưa ra những bằng chứng buộc tội gồm các tài liệu thu
được trên một chiếc thuyền đánh cá được cung cấp cho cái gọi là "nhóm kháng
chiến" của Túy. Các điện đài đặc biệt không rõ của nước nào sản xuất cũng bị thu
giữ. Chúng được coi là điện đài thuộc loại dành cho điệp viên dùng để liên lạc
với các địa điểm như ở Thái Lan. Điện đài phải có người điều khiển, nhưng người
điều khiển điện đài này cho mạng lưới điệp viên lại không được xác
định.
Đây không phải là những điện đài của
điệp viên đầu tiên được chở bằng tàu vào Việt Nam Cộng sản. Hai mươi năm trước,
các nhóm N1, N3 và N7 đã chuyển điện đài cho gián điệp đôi Đông Bắc Bắc Việt
Nam. Nếu nhóm kháng chiến có truyền thông tin trên điện đài của điệp viên thật
thì người nghe nghĩ gì mà tin rằng các điệp viên của nhóm này đang sống, khoẻ
mạnh bình thường ở Nam Việt Nam.
Lỗi lầm không sửa
chữa và lặp lại lỗi lầm.
Trung tá Nguyễn Sáng làm giám đốc
ban quản lý các nhà tù ở Hà Nội trong suốt mùa hè năm 1979 và được biết là đã về
nghỉ hưu năm 1982. Anh ta đã phục vụ Đảng và có lẽ không bao giờ ân hận về nhiệm
vụ anh ta đã làm. Trung tá Tô Bá Oanh, chỉ huy trại tù lao động ở Hồng Thắng,
thông tin cuối cùng được biết nay là đại tá chỉ huy nhà tù ở tỉnh Sông Bé. Anh
ta bây giờ lo lắng đối với những người vi phạm pháp luật xã hội hiện hành hơn là
đối với những người lính biệt kích trước đây.
Nguyễn Văn Tân thuộc toán ROMEO,
người lính biệt kích bị đánh trong thời gian biểu tình tuyệt thực năm 1973. Sau
khi tái định cư ở Mỹ, đã làm đơn đòi bồi thường thương tật. Năm 1988, một bác sĩ
người Việt đã khám cho Tân và từ Califorma gọi điện cho tôi để hỏi về một vài
hiểu biết bên trong nào đó về nguyên nhân những vấn đề khó hiểu của
Tân.
Anh ta nói: "Nội tạng của Tân không
còn làm việc tốt nữa, tôi không hiểu tại sao…Tân rất khó chịu khi giải thích
những điều gì đã xảy ra. Anh có thể viết cho tôi, giải thích tất cả về vấn đề
này được không?".
Vài tuần sau tôi đã thảo một bức thư
cho đại tá không quân Kimball Gaines, chì huy cơ quan đặc biệt của DIA về vấn đề
POW/MIA ký. Bức thư đã cố gắng giải thích những điều gì xảy ra đối với Tân trong
thời gian biểu tình tuyệt thực ở Phố Lu năm 1973 nhưng bức thư đó không phản ánh
được toàn bộ câu chuyện. Tôi hy vọng rằng ông bác sỹ người Việt ở San Jose đọc
bức thư ông đại tá Gaines cũng không thể giải thích đầy đủ được.
Lương Văn Inh thuộc toán DOG đã định
cư ở vùng rừng núi của Nam Việt Nam, một vùng không xa Đà Lạt nơi người nước
ngoài vẫn thường đến nghỉ mát, gần huyện Đức Trọng nhưng vẫn còn rất hẻo lánh và
hoang sơ. Đầu tháng 6/1994 bệnh sốt rét tái phát nặng nề đã làm cho Inh sa sút
về sức khoẻ. Người thầy thuốc ở địa phương đã bảo vệ Inh đưa anh ta đến bệnh
viện. Trong cơn giông bão hai đứa con của anh ta cùng với hai người địa phương
vào lúc nửa đêm đã bắt đầu lần theo đường mòn xuống núi mang theo anh ta bồng
bềnh trên võng, tiến ra đường cái cách xa 4km. Inh đã chết khi họ chưa ra đến
con đường. Vợ anh ta đã viết cho tôi về việc anh ta ra đi: "điều duy nhất mà
chồng tôi mong muốn là con cái được học hành và tự do… và bây giờ anh ta không
còn nữa…”
Cuối cùng Des Fitz Gerald đã đúng.
Điều đó có ý nghĩa tinh thần. Đáng tiếc anh ta không bao giờ gặp lại những người
mà anh ta nói đến.
Họ đã sống sót. Cuối cùng theo cách
của riêng mình họ là người chiến thắng.
Câu chuyện về chiến công của đội
quân những người lính biệt kích hy sinh hãy còn đó. Ngày 23/8/1995, David F.
Lambertson, đại sứ Mỹ tại Thái Lan đã gửi một bức thư điện dài 5 trang cho Bộ
Ngoại giao và INS chất vấn tại sao việc bỏ tù sau năm 1975 của hầu hết lính biệt
kích còn sống sót lại không được giám đốc khu vực INS sửa đổi lại chính sách của
mình vẫn không chấp nhận hầu hết những người lính biệt kích trước đây được xem
xét nhập cư vào Mỹ theo tinh thần hướng dẫn về chính sách đối ngoại của Bộ Ngoại
giao đã được nhất trí thông qua.
Bức điện của .ngài đại sứ đã xảy ra
cùng lúc với việc đưa ra tập hồi ký đang được tranh luận rộng rãi của ông Robert
Mc Namara đầu đề là hồi tưởng quá khứ: "Tấn bi kịch và nhũng bài học về Việt
Nam". Một phần cuộc tranh cãi xung quanh cuốn sách xuất phát từ câu hỏi được nêu
ra là liệu ông Mc. Namara và các thành viên trong guồng máy bên trong của Tổng
thống có đánh lừa Tổng thống về bản chất dính líu của Mỹ ở Việt Nam trước khi
xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964 không. Trên cơ sở vị trí nơi các
nhóm điệp viên được thả xuống, tuyên bố của một trong những quan chức CIA tham
gia, việc nghiên cứu tài liệu chính thức Của nhóm quan sát và nghiên cứu trợ lý
chỉ huy quân sự và bản khai kèm theo đây của những lính biệt kích còn sống sót
thì rõ ràng những người lính biệt kích xâm nhập để bảo vệ những cố gắng của CIA
ở Lào chứ không phải như Tổng thống được báo cáo là việc xâm nhập của những
người lính biệt kích nhằm chống lại Hà Nội vì Hà Nội đã cho các điệp viên xâm
nhập vào miền Nam Việt Nam.
Vào ngày 14/4/1995, tờ thời báo New
York đăng bài của Tim Weiner bình luận về những cố gắng của ngài đại sứ nhằm
giải quyết bế tắc của INS. Chỉ sau mấy ngày hoàn cảnh của những người lính biệt
kích đã được chú ý quan tâm của quốc tế. Đại tướng William Westmoreland, thiếu
tướng John Morrison, trung tướng George Gaspard, thượng nghị sĩ John Mc Cain và
nhiều người khác đã viết thư cho đại diện của INS. Thư của TNS chuyển đi khi một
người nhái trước đây, Dương Long Sang, cố tự sát sau khi lần thứ hai bị INS từ
chối. INS tin rằng anh ta không đủ thời gian ở tù tại Hà Nội. Tin về việc Sang
tự sát cùng đến với những tin đau thương về việc hai lính biệt kích khác đã chết
ở Việt Nam trong khi chờ đợi INS phỏng vấn trường hợp của họ.
Vào ngày 27/4/1995 John Mattes, một
luật sư bị bắt hoặc bị giết ở Bắc Việt Nam đã gửi kiến nghị đến toà án liên bang
Mỹ về vấn đề khiếu kiện tại Washington D.C đòi tiền bồi thường. Bản kiến nghị
chỉ yêu cầu rằng toà án chỉ thị cho chính quyền trả cho các điệp viên trước đây
theo đúng với hợp đồng của họ.
HẾT
PHỤ LỤC
2
KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG
34-A SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG
PHẦN II
34A/CHƯƠNG TRÌNH
"CHÚ TIỂU ĐỒNG".
GIỚI
THIỆU
II
A.TỔNG QUÁT
Các đoạn trong phần II sẽ được giới
thiệu Chương trình 34A qua việc tóm tắt những đặc điểm quan trọng của mệnh lệnh.
Hành động Sài Gòn nguyên bản. Với cơ sở này, sự phát triển của chương trình qua
các năm được tìm lại và quy trình thực hiện mệnh lệnh kiểm soát nó cũng sẽ được
phác thảo ra. Cuối cùng, tình trạng hiện tại và những hạn chế đối với chương
trình sẽ được trình bày.
B. CƠ SỞ CỦA
CHƯƠNG TRÌNH.
1.Kế hoạch hoạt động 34A.
a/ Mục tiêu:
Phối hợp các hoạt động quân sự và
ngoại giao khác ở Đông Nam Á nhằm thuyết phục với lãnh đạo của VNDCCH rằng sự
ủng hộ và chỉ đạo của VNDCCH đối với cuộc chiến tranh ở Việt Nam cộng hoà và sự
xâm nhập của VNDCCH ở Lào cần phải xem xét lại và chấm dứt. Vì những gì chúng
tôi đang tìm kiếm là sự thay đổi trong các tính toán về chính trị của VNDCCH,
nên kế hoạch này tạo ra các cách phát triển và trợ giúp các hoạt động rộng rãi
và chống lại Bắc Việt Nam nhằm trực tiếp trả đũa VNDCCH về các hoạt động xâm
lược của nước này.
b/ Khái niệm về hoat
động:
Các hoạt động sẽ gồm các hành động
lựa chọn trong bốn loại. Các hoạt động đưa vào kế hoạch trong giai đoạn 12 tháng
dưới điều kiện không có cuộc chiến tranh hạn chế. Kế hoạch được chỉ đạo trong sự
phối hợp với các hoạt động quân sự, chính trị ở Đông Nam Á. Bốn mức độ hoạt động
do kế hoạch vạch ra được tóm tắt dưới đây:
Loại 1-quấy rối: ” Bao gồm các hoạt
động phá hoại nhỏ không gây chú ý lớn, hoạt động tâm lý chiến mức độ vừa phải,
hoạt động thu thập tình báo quy mô nhỏ bao gồm các đơn vị trinh sát quân sự
chiến thuật thu tin trên mặt đất, việc bắt giữ tù binh, các tài liệu và thiết
bị, tạo các rắc rối và ngăn chặn tạm thời các đường dây thông tin”. Kết quả cần
đạt được là gây ra các khó khăn, tình trạng lúng túng do bị khiêu khBích và ngăn
chặn có thể có đối với việc vận chuyển thiết bị hậu cần và chuẩn bị sẵn sàng của
VNDCCH. Trong các hoạt động loại này không tính đến yêu cầu trả đũa cơ
bản.
Loại II-Tiêu hao: ”Bao gồm các hoạt
động chống trả quy mô nhỏ, các cuộc tấn công bằng đường sông và đường biển vào
các mục tiêu quân sự và dân sự quan trọng, phá hoại các cơ sở vật chất kỹ thuật
trọng yếú". Mục tiêu các hoạt động này là nhằm tạo ra mối đe doạ phá hoại rõ
ràng đối với các cơ sở vật chất, các lực lượng An ninh và hình ảnh quen thuộc
của giới lãnh đạo VNDCCH. Khả năng đáp lại được tính tới là hình thức trả đũa
của các lực lượng Việt cộng ở Nam Việt Nam và yêu cầu Trung Quốc viện
trợ.
Loại III-Trừng phạt: có các hành
động nhằm phá huỷ về vật chất và mang tính chống trả được thiết kế để gây ra các
tổn thất hoặc phá huỷ các cơ sở quan trọng cho nền kinh tế, phát triển công
nghiệp và An ninh của VNDCCH. Các hoạt động đó được xây dựng nhằm buộc VNDCCH
phải phát triển lại các nguồn tài nguyên trong nước và cam kết hành động của các
lực lượng VNDCCH. Các hoạt động bao gồm các cuộc tấn công của các đại đội, tiểu
đoàn và các lực lượng bí mật khi có thể, nhưng nếu lại đưa công khai thì các
hoạt động ấy quy cho phía Việt Nam cộng hoà. Các hoạt động có tầm quan trọng đòi
hỏi VNDCCH phải có các biện pháp tích cực và nghiêm chỉnh để xử lý các hậu quả.
Trả đũa các hành động này dự tính từ việc biểu tình chống đối tăng lên ở Việt
Nam cộng hòa/ Lào tới việc công khai xâm lược có sự giúp đỡ của
VNDCCH.
Loại IV-oanh tạc: “Đây là các cuộc
tấn công bằng không quân vào các cơ sở quan trọng về công nghiệp và quân sự của
VNDCCH như các khu chứa lương thực, nhà máy nhiệt điện và nhà máy gang thép gây
tổn thất làm tê liệt khả năng của VNDCCH trong việc duy trì nền kinh tế ổn định
và phát triển công nghiệp". Phản ứng đối với các hoạt động này phụ thuộc vào hai
yếu tố chính:
a. VNDCCH sẵn sàng chấp nhận những
mất mát ngay ở nước mình để tiếp tục cuộc chiến tranh ở miền Nam.
b. Phản ứng và ảnh hưởng của các
cuộc không kích đó. Người ta cho rằng các hoạt động thuộc loại này có thể làm
tăng thêm mức độ xung đột, hơn là thuyết phục VNDCCH rằng tiếp tục cuộc chiến
tranh là bất lợi, đồng thời Mỹ phải sẵn sàng thực hiện đến cùng các hoạt động
giúp đỡ Việt Nam cộng hoà trước các phản ứng của VNDCCH.
c. Phối hợp: "Phối hợp với Chính phủ
Việt Nam không thực hiện được trong quá trình xây dựng các kế hoạch hành động.
Phối hợp sẽ được cố vấn trưởng cơ quan giúp đỡ quân sự Mỹ ở Việt Nam thực hiện
sau khi kế hoạch đã được chấp thuận. Các lực lượng Mỹ sẽ không được sử dụng vào
các hoạt động trong lãnh thổ của VNDCCH, vùng trời, vùng biển nước này trừ các
cuộc trinh thám bằng máy bay."
d. Các nguồn: Các nguồn trong nước
sẵn có hoặc đưa vào chương trình được xem là thích hợp cho các hoạt động từ loại
I đến loại IV. Các yêu cầu cụ thể ghi trong phụ lục A của kế hoạch hoạt động,
các yêu cầu chung là:
1. Các toán hoạt động loại nhỏ phải
ở trong nước và hoạt động.
2. Trả đũa bằng máy bay
C123.
3. Tăng cường nhân sự cần thiết để
tổ chức và thúc đẩy cơ quan thực hiện nó.
4. Tăng cường các toán chiến tranh
tâm lý.
5. Chuẩn bị sẵn hai dụng cụ hướng
dẫn cầm tay.
6. Năm phòng phát thanh để tiến hành
các hoạt động phát thanh công khai và bí mật.
7. Đào tạo các toán công tác trên
máy bay về kỹ thuật kết hợp đặt mìn.
8. Đặt các điểm phát tín hiệu bằng
pháo sáng cho máy bay. Một nguồn bổ sung khác được xem xét là 800.000 người ty
nạn từ VNDCCH, bao gồm người Mèo, người Nùng, trong đó người ta tin là một vài
nghìn người có thể được chọn lựa và huấn luyện cho các hoạt động đặc
biệt.
C. HOẠT ĐỘNG.
Năm hình thức hoạt động đã được vạch
kế hoạch và được giới thiệu tóm tắt dưới đây:
1. Thu thập tình báo: Các hoạt động
có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo đầu tiên bao gồm:
a. Thu tin.
b. Tăng cường trinh sát chụp
ảnh.
c. Tiến hành các hoạt động thông
tin.
d. Tăng thêm các toán tình báo chiến
thuật của Việt Nam cộng hoà.
e. Giao thêm nhiệm vụ thứ 2 về thu
thập tình báo cho các hoạt động ở Bắc Việt Nam.
f. Tăng cường các hoạt động tình báo
xâm nhập khu phi quân sự.
2. Hoạt động tâm lý: Các hoạt đông
tâm lý mang tính chiến lược và chiến thuật nhằm chống lại giới lãnh đạo của
VNDCCH và nhân dân nước này, sử dụng mọi kỹ thuật thông tin sẵn có nhằm quấy rối
chia rẽ và lập ra lực lượng chống lại trong VNDCCH.
3. Sức ép chính trị: Các hoạt động
được vạch ra để báo cho giới lãnh đạo của VNDCCH là phải chấm dứt việc chỉ đạo
và ủng hộ cuộc xâm lược ở Việt Nam và Lào, nếu không hành động trả đũa tiếp theo
mang tính chất tàn phá mạnh mẽ hơn sẽ được thực hiện chống Bắc Việt Nam.
No comments:
Post a Comment