Phần IV
RÚT LUI TRONG DANH DỰ
(1967-1973)
14. BẮT ĐẦU GIAI ĐOẠN KẾT THÚC.
Vào năm 1966, người ta rất lo ngại
rằng các cố gắng đánh biệt kích hoạt động tầm xa đã thất bại. Các nhóm quân
không chính qui người Lào do CIA chỉ huy đã xâm nhập Sơn La năm 1965 để tìm toán
REMUS. Toán người H'mông bị mất người dẫn đường khi đi do thám xác minh sự hiện
diện của lực lượng một tiểu đoàn Bắc Việt có 350 người, ở các toạ độ chính xác
mà người ta cho rằng toán biệt kích đang hoạt động. Một toán quân Lào được gởi
đi từ Luang Pra Bang xâm nhập khu vực sông Mã, tỉnh Sơn La trong năm 1967. CIA
đã thông báo các phát hiện của họ với MACSOG.
Các toán
của MACSOG tiếp tục được gởi đi và chui đầu vào "rọ" của miền Bắc . Vào ngày 5
tháng 10 năm 1966, 8 biệt kích trong toán SAMSON đổ bộ xuống gần Lai Châu. Họ đã
bị bắt vào đầu tháng 12. Ngày 24 tháng 12 thêm 2 biệt kích nữa được gởi tiếp vào
Lai Châu để tăng cường cho toán TOURBILLON. Ngay ngày hôm sau, ngày 25 tháng 12
Nông Văn Long và Nguyễn Văn Thứ đã bị lực lượng phản gián Bắc Việt giương bẫy,
đóng giả là người của TOURBILLON bắt gọn. Đó là toán cuối cùng được phái đến cho
TOURBILLON.
Ngày 21 tháng 8 năm 1967 hai điệp
viên nhảy dù xuống miền Bắc để tăng cường cho toán REMUS. Họ được biết dưới tên
gọi là REMUS 23 và 24, toán cuối cùng trong gần 18 toán tiếp viện được gởi đi
tăng cường cho REMUS kể từ năm 1963. Hai biệt kích cuối cùng này, Đỗ Văn Tâm và
Trương Tuấn Hoàng, chỉ có một nhiệm vụ duy nhất, vì nó mà họ phải luyện tập gần
suốt cả năm 1967. Họ được đào tạo trong hệ thống Skyhook, đó là một phương pháp
thoát nhập mới. Hệ thống này sẽ sử dụng máy bay A1 Skyraider do các phi công Nam
Việt Nam lái, loại máy bay này có một chiếc móc ở đuôi có thể nhặt các gói nhỏ ở
phía sau các phòng tuyến của quân thù. Người ta dựng các cọc lên và căng một dây
giữa các cọc này, cách mặt đất vài mét. Máy bay Skyraider có thể sà xuống và móc
đuôi của nó vào sợi dây treo này và nhắc đi bất cứ vật gì được ngoắc vào dây đó.
Trong trường hợp REMUS, các máy bay Skyraider sẽ lấy đi các băng ghi thông tin
của các tuyến điện thoại của miền Bắc Việt Nam do Tâm và Hoàng thực
hiện.
Các biệt kích này thực tập việc nghe
trộm điện thoại trong mùa hè đó, đầu tiên trong không khí mát mẻ của Đà Lạt một
thành phố miền núi của miền Nam và sau đó, trong một khu vực dã chiến của Mỹ,
tất cả đều được MACSOG chuẩn y. Họ nghe các băng được giả định là do một biệt
kích ở hậu phương địch ghi, nhưng họ hầu như không nghe thấy gì ngoài tiếng lạo
xạo của điện thoại.
Một trong những biệt kích này sẽ
được cài lại ở miền Bắc để thay thế điện đài viên đầu tiên của REMUS, người sẽ
bị đưa về bằng kỹ thuật Skyhook (móc lên bằng máy bay) nhằm kéo về một điệp viên
hoạt động ở Bắc Việt Nam và kiểm tra xem anh ta có bị đối phương khống chế hay
không.
Trương Tuấn Hoàng kể lại số phận của
họ:
- Chúng tôi đổ bộ vào ban đêm, và
sáng hôm sau họ cử người đón chúng tôi. Họ mặc đồ pijama đen, đeo băng tay. Họ
lại gần chúng tôi với mật khẩu chính xác và mọi việc xem chừng rất trôi chảy.
Sau đó họ chĩa súng vào chúng tôi, và chúng tôi bị bắt làm tù binh Chúng tôi
được đưa vào một cái lán nơi người ta cho rằng toán REMUS hoạt động ở đấy, nhưng
thực ra đó là một cái trại được nguỵ trang rất tài tình của lực lượng công an
nhân dân vũ trang Đây chính là nơi điện đài của toán REMUS đang hoạt động. Rồi
sau đó xảy ra điều gì? Họ thu hết quân trang của chúng tôi, mà chúng tôi chẳng
thể làm được gì. Sau đó họ chuyển tôi về trại giam Thanh Trì.
Việc xâm nhập của hai điệp viên được
tăng cường cho toán REMUS xảy ra vào lúc MACSOG chuẩn bị rút dần các toán hoạt
động tầm xa. Tuy nhiên, những người nằm trong hệ thống chỉ huy từ Washington đến
Sài Gòn đang đòi hỏi các thông tin đáng tin cậy về thực trạng của hệ thống đường
xâm nhập của Bắc Việt Nam mà người ta gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Một hệ thống
đường quanh co và các cơ sở khác, thường nằm dưới đám cây có nhiều chòm lá, khó
có thể thấy được từ phía trên.
Trong mùa xuân năm 1967, MACSOG đã
triển khai bốn toán trinh sát tầm ngắn đầu tiên, các toán mang tên STRATA, nhiệm
vụ của họ là xâm nhập vào miền Bắc , thường là các khu vực gần đúng những nơi mà
các toán tầm xa đã được đưa vào, và báo cáo rõ những điều đang xảy ra trên mặt
đất dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Tầm hoạt động của họ được mở rộng lên phía
Bắc (từ khu phi quân sự) đến gần biên giới Trung Quốc, mặc dù các chuyến công
tác của họ chưa bao giờ đến gần phía Bắc đường 7 ở tỉnh Nghệ An. Trong nội bộ
MACSOG, họ được hiểu là thuộc các lực lượng của kế hoạch 34B.
Được tổ chức tại Long Thành vào mùa
hè, các toán đầu tiên đã đổ bộ vào vùng cán xoong hẹp ở phía Nam của miền Bắc.
Toán thứ nhất đã đổ bộ cách vị trí đã định gần 10km. Mấy ngày sau họ đã đụng độ
với các lực lượng biên phòng của miền Bắc và bị bắt. Tuy nhiên, việc ra vào
nhanh của các toán này trong suốt năm sau chứng minh rằng họ có thể phái các
toán biệt kích vào các khu vực cực kỳ nguy hiểm và kéo họ ra sau khi họ đã hoàn
thành nhiệm vụ.
Thiếu tá George Gaspard, sĩ quan chỉ
huy chiến dịch đã cố gắng mở đầu vào tháng 12 và nói về những vấn đề mà các toán
đang phải đương đầu như sau:
- Tung họ vào đó và đưa họ ra an
toàn. Đó là điều chúng tôi cố thực hiện. Các cuộc hành quân của biệt kích tầm xa
không thực hiện được nhưng các toán STRATA của tôi đã thực hiện được. Vì vậy, cố
gắng trên của chúng tôi đã thành công theo nghĩa đó.
Không giống như các toán hoạt động
tầm xa, các toán STRATA quả thực đã thực hiện được điều tưởng như không thể thực
hiện. Họ luôn vào và ra, trước lúc lực lượng biên phòng phát hiện thấy họ. Năm
1968, trong hàng chục phi vụ, chỉ có năm toán bị mất cả hoặc một phần. Một thành
công đáng mong muốn so với sự thất bại 7 năm của các toán hoạt động tầm xa. 27
năm sau, một thành viên cũ của một toán STRATA đã diễn tả điều đó như
sau:
- Chúng tôi đã thực hiện được gì?
Tôi không thể nói về các toán khác, nhưng chúng tôi đã đến vùng biên giới trong
mùa hè năm 1968 và ít nhất cũng đã thực hiện được một điều. Tôi là người chỉ huy
của toán STRATA 114, trước khi tôi rời khỏi miền Nam. Người ta yêu cầu tôi tìm
ra cái hang ổ chết tiệt của miền Bắc đang khống chế một trong các điện đài của
biệt kích hoạt động tầm xa của chúng tôi. Chúng tôi đã thấy họ ư? Ồ vâng, đúng
là chúng tôi đã thấy họ. Nhưng dĩ nhiên họ cũng thấy chúng tôi. Tôi và hai người
nữa bị bắt, nhưng chắc rằng người ta đã nói lại là chúng tôi đã nhìn thấy
họ.
Hoàng Văn
Chương, người chỉ huy trước của toán 114 đã mất gần 15 năm lao động khổ sai để
nhận được tin về những người còn sống sót trong toán của anh ta.
May thay MACSOG đã chấm dứt các cuộc
hành quân của biệt kích tầm xa trong tình hình này. Một danh sách ngày càng dài
của những toán biệt kích tầm xa đang làm việc cho Hà Nội đã tác động mạnh hơn
vào việc giảm số biệt kích có sẵn của MACSOG.
Thí dụ vào năm 1967 các máy bay vận
tải C123 và C130 với phi hành đoàn Đài Loan và Mỹ của không lực MACSOG được tăng
cường bằng máy bay cánh quạt và phản lực, đang vận chuyển một khối lượng đồ tiếp
viện ngày càng tăng và thực hiện các phi vụ khác liên quan đến các toán hoạt
động tầm xa ở trong lòng miền Bắc. Điều đó có nghĩa là các nguồn lực còm cõi của
MACSOG ngày càng bị Hà Nội tiêu hao. Hà Nội đang gián tiếp khống chế các nguồn
lực của MACSOG giỏi hơn cả đại tá John Singlaub, người chỉ huy của chính MACSOG.
Singlaub, người chỉ huy của MACSOG
đến Việt Nam vào tháng tư năm 1966 đã sớm có kết luận rằng mọi toán biệt kích ở
miền Bắc đều đã đầu hàng. Trong cuốn tự truyện của mình Singlaub cho biết ông đã
nghiên cứu kỹ các hoạt động của các toán biệt kích tầm xa. Và kết quả của việc
nghiên cứu này đã củng cố niềm tin của ông ta rằng các toán này chắc chắn đã đầu
hàng. Singlaub tin vào đại tá Robert Kingston với việc mở đầu các cuộc hành quân
nghi binh nhằm đánh lạc hướng miền Bắc khi Singlaub cố gắng xác định những kẻ
phản bội ở phía Việt Nam hoặc Mỹ trong cuộc hành quân này.
Tài liệu nghiên cứu của MACSOG xác
nhận rằng các cố gắng này là một bộ phận lớn hơn nhiều của Mỹ để buộc chặt lực
lượng an ninh của miền Bắc vào vùng cán xoong đó. Các văn bản quân sự của Việt
Nam thể hiện sự lo lắng về khà năng đổ bộ của Mỹ và vùng cán xoong này, niềm tin
chính vào cuộc hành quân nghi binh, trong đó MACSOG có tham gia một phần, nhưng
miền Bắc đã chẳng huy động các nguồn lực để chống lại sự kiện bất ngờ ấy. Điều
đó tạo thêm một bằng chứng rằng miền Bắc đã nắm chắc cuộc hành quân nghi binh
lớn của Mỹ, không phải chỉ là những cuộc hành quân của đối phương Miền Nam của
họ. Trong cuốn tự truyện của mình, Singlaub mô tả một sự việc, tình cờ cho rằng
đại úy Fred Caristo đã phát hiện ra một điệp viên miền Bắc trong hàng ngũ của
Ban chỉ huy Nha kỹ thuật chiến lược, sau đó Caristo cho điệp viên này nhảy dù
trở lại miền Bắc. Điều này có thể được coi ngang với việc sử dụng một trong các
tù binh hoặc kẻ đào ngũ của miền Bắc vào bộ phận khác của chương trình nghi binh
và không được coi bằng một trong các toán biệt kích bán quân sự tầm xa được
tuyển mộ ở Miền Nam.
Tài liệu nghiên cứu của MACSOG xác
nhận rằng các cuộc hành quân đánh lạc hướng đã bắt đầu trong mùa thu năm 1967
khi các biệt kích tầm xa cuối cùng được thả dù vào miền Bắc. Vào lúc này, MACSOG
đang chỉ huy và cung cấp lại 17 toán biệt kích tại chỗ (hai biệt kích chủ bài
và 15 toán biệt kích, bốn trong các toán này và các điệp viên sừng sỏ đã được
tung vào miền Bắc trong năm 1967).
Các toán biệt kích này đã nhận được
24 phi vụ tiếp viện trong năm 1967. Toàn bộ 15 toán (trừ toán VOI mất tích) đã
bị Hà Nội khống chế (xem hình 6). Trước mùa hè năm 1968 những cuộc hành quân của
biệt kích tầm xa cuối cùng đã kết thúc, và nó được thay thế bằng một toán hỗn
hợp của CIA/MACV khi Singlaub rời khỏi Việt Nam để nhận nhiệm vụ
khác.
Không có điểm nào trong các tài liệu
của MACSOG hỗ trợ cho bản báo cáo về việc đại uý Caristo trong năm 1966-1967,
theo mô tả của các biệt kích còn sống sót, đã đào tạo sĩ quan cho toán HADLEY,
toán RED DRAGON và các toán STRATA trước đây đóng tại Long Thành vào giữa năm
1967. Không có bằng chứng nào về việc Caristo đã thực sự thành lập mạng điệp
viên của riêng ông ta ở miền Bắc và ông ta không tiến hành một cuộc hành quân
nào chống lại tình báo của miền Bắc. Theo Singlaub thì điều này nằm trong các
thành tích của Caristo. Singlaub cũng tin rằng Caristo đã khởi tạo khái niệm
STRATA, nhưng điều này thật đáng ngờ. Các tài liệu của tác giả cho thấy rằng
chương trình STRATA bị thất bại từ đầu cho đến cuối năm vì việc thực hiện không
được rõ ràng ngay từ ban đầu. Toán STRATA đầu tiên được phái ra miền Bắc đã được
thả xuống cách khu vực dự định 10 km và bị bắt sau khi bị cầm chân hàng tuần lễ
quanh các ngọn núi. Các nỗ lực của chương trình STRATA được cải thiện mạnh mẽ
với sự bổ nhiệm sĩ quan tác chiến mới, thiếu tá George Gaspard, tháng
12/1967.
Trùng hợp với sự kết thúc của các
toán biệt kích tầm xa, một kế hoạch công tác mới được giao cho các biệt kích
trong tù ở khu vực K, trại giam Quyết Tiến một trại khổ sai ở tỉnh Hà Giang, sát
biên giới Trung Quốc. Công việc bắt đầu kế hoạch 3 tháng cuối năm 1967, theo các
mệnh lệnh của Ban chỉ huy trại để xây dựng các nhà giam phụ.
Các cán bộ của trại giam không giải
thích gì hơn là cần phải có thêm các nhà giam khác và các tù nhân không nên hỏi.
Qua nhiều năm họ đã biết rằng họ chỉ được làm theo lời chỉ bảo, không được thắc
mắc.
Ngay sau cuộc tổng tấn công tháng
hai 1968 ở miền Nam, các tù nhân mới được đưa đến khu vực K, nhưng họ bị giam
cách ly với những người đã ở đó. Các phạm nhân biệt kích hiện có chỉ có thể xác
định rằng những người mới đến là người Việt Nam. Vào cuối năm đó, hai trong ba
tù nhân mới, được xác định là Phạm Ngọc Khánh và Lê Trung Tín, toán viên của
toán RED DRAGON. Họ là toán biệt kích tầm xa cuối cùng được tung ra miền Bắc
.
Khánh và Tín đã mô tả với các bạn tù
việc họ nhảy dù xuống tỉnh Hà Giang vào ban đêm như thế nào. Đợt nhảy dù này trở
thành một thảm hoạ, các thành viên của toán bị tán loạn xuống các sông suối.
Theo cách nói của các không quân thì đó là một "chuyến nhảy dù tồi
tệ”.
Mới đặt chân xuống mặt đất các biệt
kích này đã bị bắt. Một số bị bộ đội của các đơn vị phòng không Trung Quốc đang
triển khai ở khu vực này bắt. Khánh và Tín biết rằng hai thành viên khác trong
toán của họ là Vũ Sư và Nguyễn Hữu Tân cũng đang ở trong các nhà giam lân cận.
Họ đã bị giam cách ly ở các trại tạm giam của công an tỉnh Hà Giang cho đến bây
giờ. Sau đó Khánh và Tín đã tiết lộ với các tù nhân khác rằng những điện báo
viên của toán này đã trở thành kẻ phản bội và đã đánh điện đài của họ dưới sự
điều khiển của Bộ Công an. Kết luận của họ đã dựa vào thực tế là 2 điện báo viên
này đã bị giam cùng với họ.
Sau đó không lâu, người ta nghe thấy
tiếng nói của 3 thành viên mất tích khác của toán RED DRAGON trong số những
người mới đến khác ở khu vực K. Những mẩu tin ngắn được gói quanh các viên đá và
được ném qua các bức tường với hy vọng sẽ tìm được các thông tin phản hồi. Không
có một phản ứng nào cho đến khi Khánh và Tín gửi được một bức ngắn cho hai điện
báo viên mất tích của toán RED DRAGON. Một thư trả lời báo rằng những thành viên
còn lại của toán này đã được bổ sung cho khu vực K.
Sau một thời gian, các tù nhân khác
ở Quyết Tiến đã nhận ra được những giọng nói mới ở khu vực K và họ đã thu nhặt
dần các tin tức về những người này để tìm hiểu xem họ là ai. Tất cả bọn họ dường
như là những điện báo viên thuộc dân tộc ít người đã xâm nhập vào các khu vực
của Sơn La và Lai Châu. Một số tù nhân biết họ, nói rằng họ là những người của
các toán đầu tiên được phái ra miền Bắc trong năm 1961-1962. Cuối cùng một toán
trên 30 người đã được chia làm 4 nhóm ở các nhà giam mới ở khu vực K.
Những
biệt kích ở Quyết Tiến rất ngao ngán khi biết rằng một số cuộc hành quân của họ
bị lâm vào tình trạng nguy hiểm do các thành viên của toán đã tự nguyện hợp tác
với kẻ thù. Khi nói chuyện với nhau, họ thấy rằng trong năm 1967, không có tù
nhân nào ở Quyết Tiến thuộc về các toán có những điện báo viên đang làm việc cho
miền Bắc . Như vậy có nghĩa là còn có những toán khác mà họ chưa hề
biết?
Những tù nhân cao tuổi hơn suy luận
tới khả năng miền Bắc sử dụng các điện báo viên bị bắt, chỉ có thể là những
người dân tộc miền núi chứ không phải là những người ở miền xuôi. Họ không nghĩ
rằng những người vùng xuôi có thể giống những người này, vả lại, họ thông minh
hơn. Mặt khác, họ nghĩ rằng những người dân tộc miền núi như Tày, H'mông và Thổ
thường dốt nát và ít hiểu biết. Rõ ràng là những cán bộ thẩm vấn mưu trí của Bộ
Công an đã thấy là họ dễ bị thuyết phục.
Những biệt kích ở Quyết Tiến biết
rằng họ đã có thông tin về hoạt động điện đài trá hình thật đồ sộ, nhưng họ
thiếu các phương tiện để báo về Nha kỹ thuật. Bất kỳ ý nghĩ nào về việc cảnh báo
cho Sài Gòn rõ hoạt động của miền Bắc cũng bị thay thế ngay bằng ý nghĩ về sự
sống sót, dù chỉ thêm một ngày nữa.
Đại uý Nguyễn Thái Kiên, chỉ huy
toán RED DRAGON đang ở khu nhà giam mới, cùng với các điện báo viên phản bội.
Một số ít tù nhân khác đã biết vì sao người ta cách ly Kiên.
Kiên đã làm việc cho Sở khai thác
địa hình năm 1964 với hàm trung uý. Cơ quan này còn đang phải chịu những hậu quả
của việc ám sát Diệm và việc phế bỏ tổ chức tình báo của Trần Kim Tuyến. Các sỹ
quan mới được đưa về vào năm 1965, Sở chỉ huy đã chuẩn bị mở rộng các cuộc hành
quân ở vùng biên giới.
Với cái chết của Diệm, một cơ quan
tình báo cấp quốc gia mới của Miền Nam đã nổi bật lên: Phủ đặc uỷ Trung ương
tình báo (CIO) được CIA cố vấn và hỗ trợ về tài chính đã chi phối các hoạt động
tình báo, cũng đã gây ảnh hưởng nhiều hơn so với tổ chức của bác sĩ Tuyến.
Các tin tức tình báo do các toán
biệt kích thu nhận được cung cấp cho CIO cũng như Bộ Tổng tham mưu liên quân của
quân đội miền Nam. Sở khai thác địa hình đã được đổi tên thành Sở kỹ thuật
(STS), và trung uý Kiên nắm quyền chỉ huy của 1 trong 5 toán dã chiến ở vùng
biên giới do một cơ quan mới thành lập gọi là Sở liên lạc. Sau đó Kiên trở thành
sĩ quan chỉ huy chiến đấu của các cuộc hành quân ở vùng biên giới. Ông ta kết
hợp những thông tin về lực lượng của quân địch trong các khu vực mà các toán sẽ
hoạt động, bao gồm cả các thông tin thu được qua thẩm vấn, cũng như các thông
tin do quân đội miền Nam thu được trong việc thu và giải mã các cuộc truyền tin
của Bắc Việt ở Lào.
Năm 1966, Kiên được bổ nhiệm làm chỉ
huy của toán RED DRAGON, khi đó STS được đặt tên lại, và trở thành Nha kỹ thuật
(STD). Ban đầu toán RED DRAGON có gần hai mươi người, nhưng nó bị chia làm hai
toán vào thời gian gởi đi mùa thu năm 1967. Một toán được giữ lại ở phía sau để
tăng viện cho toán RED DRAGON sau này.
Nhiệm vụ của toán RED DRAGON là nhảy
dù xuống tỉnh Hà Giang, gần biên giới của miền Bắc với Trung Quốc. Nguồn tin
tình báo đáng tin cậy xác nhận sự hiện diện của 2 sư đoàn phòng không của CHND
Trung Hoa trong khu vực này, cũng như để chi viện ra bên ngoài Trung Quốc. Tiếp
sau sự điều phối ở Sài Gòn giữa tuỳ viên quốc phòng của Cộng hoà Trung Quốc (Đài
Loan) và miền Nam Việt Nam, một đội đặc nhiệm gồm 14 biệt kích Đài Loan đến Long
Thành. Họ huấn luyện RED DRAGON để chuẩn bị nhảy dù xuống Hà Giang, ở đó sẽ tiến
hành các cuộc hành quân chung với các toán của Kiên.
Ngày 21 tháng 12 năm 1967, chiếc máy
bay C130 với đội bay theo hợp đồng của Đài Loan cất cánh bay ra miền Bắc chở
toán RED DRAGON, nhưng không có biệt kích Đài Loan. Đại uý Kiên là người nhảy ra
khỏi máy bay đầu tiên khi nó bay tới nơi dự định thả dù. Người phụ trách điện
đài của ông ta bị kẹt cứng ở cửa. Phải mất khá lâu mới gỡ được và đẩy ra khỏi
máy bay trước khi những biệt kích còn lại có thể nhảy theo.
Sau khi bị bắt, Kiên bị giam ở nhà
tù tỉnh Hà Giang, người miền Bắc thuyết phục hai điện báo viên của toán để liên
lạc điện đài với Sài Gòn. Để giải thích rằng họ không thể cung cấp tín hiệu an
toàn của Kiên, người ta chuyển một đoạn tin nói rằng người đại uý này đã bị
giết.
Kiên được chuyển về trại giam Thanh
Trì, nơi các thành viên của các toán có điện báo viên đã bị Hà Nội sử dụng. Anh
ta bị giam cách ly ở một trong các phòng của khu D. Năm 1968, các tù binh Mỹ từ
miền Nam được đưa đến đó. Để giữ Kiên cách ly với các biệt kích khác, cán bộ
trại giam đã thay các buồng của tù binh biệt kích và tù binh Mỹ ở khu D. Việc
này đã ngăn chặn các nhóm duy trì việc tiếp xúc với nhau.
Trong khi đó, MACSOG và STD đã bị
ảnh hưởng bởi các cuộc oanh tạc trong mùa xuân năm 1968 để ngăn chặn miền Bắc
theo lệnh của Tổng thống Johnson. Hành động này đã có hàm ý rõ ràng đối với các
toán biệt kích đường không tầm xa, liên lạc từ sâu trong miền Bắc. Một số sĩ
quan của MACSOG tin rằng việc ném bom ngăn chặn sẽ làm cho sáu toán bị bỏ rơi
sâu trong miền Bắc, không có phương kế nào để tái tiếp viện nếu các toán này vẫn
còn "an toàn". Những người khác trong MACSOG từ lâu đã kết luận rằng các biệt
kích dường như đều bị quân thù khống chế, và hoạt động này có thể đã bị kết thúc
vài năm trước (xem phụ lục 5).
MACSOG đã bắt đầu cho rằng các toán
được chuyển ra miền Bắc có nhiều khả năng đã bị bắt. Ví dụ: ngày 18 tháng 10 năm
1967, toán T2 có 4 người thay thế cho toán HADLEY, đã đổ bộ bằng máy bay trực
thăng xuống Hà Tĩnh, ở phía bắc địa điểm cuối cùng của HADLEY mà người ta biết
rõ. Bây giờ toán VOI, không hề liên lạc bằng điện đài kể từ sau khi đến, và
người ta cho rằng các thành viên của toán này đã chết hết.
Một phần, MACSOG đáp lại cho những
nỗ lực của Hà Nội là sử dụng những cuộc hành quân nghi binh thực sự đầy tham
vọng. Kế hoạch Borden liên quan đến việc sử dụng những tù binh của miền Bắc được
tách riêng ra ngay sau khi bị bắt, trước khi điều này trở thành vấn đề liên quan
đến hồ sơ cán bộ. Sau khi giải quyết xong vấn đề tâm lý, họ được đưa vào các phi
vụ chống lại lực lượng của mình. Gần 55 biệt kích được tung ra trong năm 1967,
nhưng chỉ có 5 người quay về với MACSOG. Người ta hy vọng rằng phần hữu ích là ở
chỗ họ sẽ kết hợp chặt chẽ với các ban an ninh quân sự trong việc tìm kiếm các
quân nhân bất mãn. Một chương trình liên quan, Earth Angel (thiên thần của trái
đất), đã phát triển các toán lính đảo ngũ của miền Bắc, họ được trang bị vũ khí
và phái vào các phi vụ trinh sát chống lại các lực lượng võ trang trước của họ.
Các nhóm này đã xâm nhập vào Lào và Campuchia tương đối dễ dàng và chịu ít
thương vong.
Kế hoạch Urgent (khẩn cấp) liên quan
đến việc lôi kéo, tuyển lựa và cài lại ở miền Bắc các thường dân bị các lực
lượng hải quân MACSOG bắt trên biển. Chương trình này có cả các "biệt kích giả",
đó là những người có thể xuất hiện như các biệt kích, nhưng thực tế họ không
thực hiện nhiệm vụ này. Vào năm 1968, ít nhất là có 11 biệt kích "khẩn cấp" và 2
biệt kích giả ở vùng duyên hải của miền Trung Bắc Việt, nhưng hai biệt kích giả
không bao giờ báo cáo sau khi trở lại dịa bàn Vinh. Kế hoạch Oodles (vô vàn)
thậm chí còn nhiều tham vọng hơn. Đó là đội quân biệt kích ma, chỉ tồn tại trong
phạm vi các buổi phát sóng trá hình để tạo nên ấn tượng về một lực lượng biệt
kích lớn dọc theo biên giới phía tây của miền Bắc. Các đoạn tin đánh cho các
toán biệt kích quốc gia này được chuyển qua các buổi phát thanh tuyên truyền của
Liên minh "Gươm thiêng ái quốc" (SSPL), một lực lượng kháng chiến ma. Vào mùa hè
năm 1967, các đoạn tin của MACSOG đánh cho các toán như HADLEY rồi phát đi từ
Bắc Việt và người ta tin rằng nó đã bị đối phương khống chế được phối hợp chặt
chẽ với các chương trình trá hình. Khi cuộc ném bom hạn chế chống lại miền Bắc
xảy ra vào mùa xuân năm 1968, một nhóm sĩ quan đặc biệt của CIA và Bộ Quốc phòng
đến Sài Gòn để tiến hành phân tích sự an toàn của từng toán một trong từng đợt
phát sóng từ trong lòng của miền Bắc Việt Nam. Mùa hè đó, các sĩ quan này kết
luận rằng tất cả các toán đã bị đối phương khống chế sau khi được đánh vào một
thời gian ngắn.
Trong khi kiểm tra công tác an ninh,
các chuyên gia tình báo này cũng cố gắng so sánh đặc điểm riêng của việc chuyển
mã móc "đầu tiên" của các điện báo viên với tín hiệu móc phát đi Bắc Việt. Họ
thấy rằng băng ghi âm của điện báo viên “trước đây" thực hiện một cách điêu
luyện trong các năm đầu, đã trở lên lộn xộn đến mức không còn phù hợp với các
cuộn băng của từng điện báo viên.
Thậm chí sự kết luận của toán này về
nguy cơ tên biệt kích chủ bài nổi tiếng là ARES đã phát huy tác dụng. Các sĩ
quan MACSOG lấy làm tủi nhục với sự đánh giá này. Họ nhớ lại thời gian trong năm
1964, sau những đợt không kích đầu tiên của Mỹ trong ngày 5 tháng 8, khi ARES đã
lớn tiếng ca ngợi không kích và yêu cầu oanh tạc nhiều hơn nữa để quét sạch các
mục tiêu của quân thù ở Bắc Việt Nam.
Xét cho cùng, ARES rất có thể là
gián điệp đôi mặc dù vào thời điểm đó người ta không biết điều ấy, những lời anh
ta kêu gọi tiếp tục các cuộc không kích của Mỹ nói nhiều về các nỗ lực của Bắc
Việt để kích động hành động đó trong tình hình bấy giờ.
Vào tháng tư năm 1969, các điện báo
viên được sử dụng vào các hoạt động nguỵ trang của miền Bắc được báo cáo là nằm
trong khu biệt giam B trại giam Thanh Trì. Có một vài bằng chứng cho thấy Hà Nội
đã thay thế các điện báo viên của chính họ, rõ ràng người ta biết không ai trong
MACSOG hoặc STD có thể hiểu nổi sự thay thế đó. Một sự cả gan như vậy chỉ có thể
được nỗ lực thực hiện khi Hà Nội biết rõ về cuốn băng lộn xộn đã trải qua công
tác phân tích an ninh hỗn hợp năm 1968.
Các hoạt động đánh lạc hướng và
STRATA vẫn còn kéo dài thêm nhiều tháng, khi HADLEY dần dần bị vắt hết mọi thông
tin họ có. Nhiệm vụ đã hoàn thành, giờ là lúc các toán viên được đưa vào một nhà
giam đặc biệt, mà người ta biết rõ đó là trại Thanh Trì.
15. CHUỘT VÀ NGƯỜI
Vào cuối mùa hè năm 1967, thành viên
của toán HADLEY bị đẩy lên xe tải quân sự và bị xích tay vào với nhau. Những
người áp giải họ, thành viên của lực lượng Công an Nhân dân vũ trang ra lệnh cho
họ nhìn xuống sàn, cúi gầm mặt xuống tránh để dân làng trông thấy, vì nếu thấy,
dân làng có thể giết họ. Những biệt kích này nửa tin nửa ngờ vào lời những người
dẫn giải, nhưng dù sao họ vẫn cúi đầu xuống thực hiện đúng lời dặn.
Rời khỏi vùng duyên hải Hà Tĩnh và
đi ra phía Bắc, họ chỉ đi vào ban đêm và dừng lại tại các địa điểm đã chọn trước
để nghỉ ngơi vào ban ngày. Chuyến đi thật yên ổn trừ khi họ nghe thấy tiếng máy
bay phản lực ở đâu đó trên đầu và sau đó dội bom ở phía xa. Những tù nhân này
mỉm cười, còn những vệ binh thì sốt ruột.
Sau vài ngày rong ruổi trên đường,
đoàn dẫn giải nhỏ này được đưa vào một hợp tác xã ở vùng quê, và các tù binh
được chia làm 4, có người bảo vệ trong một ngôi nhà khó nhận biết ở địa phương.
Ngay sau lúc rạng đông, họ bị đánh thức dậy và đưa tất cả ra khỏi ngôi nhà đó.
Đi ra sân, họ lại bị khoá tay bằng xích và đưa mọi người vào ẩn dưới bóng cây.
Lại bắt đầu một ngày nóng gắt. Những người bảo vệ biết rằng các tù binh không
thể chạy trốn, nên đã để họ đấy, không có người gác.
Bỗng nhiên xuất hiện một bà già, có
lẽ là người ở trong ngôi nhà mà họ vừa ngủ đêm qua. Bà lại gần và nhìn họ chằm
chằm: "Vì sao tất cả chúng mày lại còm nhom thế? Bị bắt lâu chưa?".
Những câu hỏi của bà rất thân mật,
hơi tò mò và giống như một bà cô hỏi các cháu mà lâu ngày bà chưa gặp. Những
người lính biệt kích này cũng trả lời các câu hỏi của bà một cách thân mật. Câu
chuyện phiếm của họ tiếp tục trong dăm ba phút, cho đến khi người bảo vệ trở
lại. Thấy người bảo vệ này, bà già vội lảng đi, thái độ của bà đã thay đổi. "Bọn
tay sai của đế quốc Mỹ? Cứ nhằm vào chúng ta, giết hại nhân dân...". Bà tiếp tục
nói huyên thuyên. Các tù binh ngồi đó và mỉm cười nhìn xuống đất. Họ biết rằng
cơn tức giận của bà chỉ là trò chơi chữ.
Trong vài phút nữa họ lên đường. Tay
bị khoá giật cánh khuỷu, nhìn chằm chằm xuống sàn xe, họ chỉ cảm nhận được các
cú xóc liên hồi. Họ liếc nhìn những xe tải chở đầy hàng chạy xuôi về phía nam,
phá vỡ sự đơn điệu của chuyến đi. Họ đến Hà Nội vào cuối buổi chiều, và cuối
cùng chiếc xe tải dừng lại một cách thận trọng ở cửa nhà giam Hoả Lò. Ngày
18/8/1967, toán HADLEY chính thức được đưa vào hệ thống nhà giam Trung ương của
Bộ Công an Bắc Việt.
Lời nói lảm nhảm của một tù nhân
trong đêm đầu tiên ở Hỏa Lò nghe như một vở Kịch độc thoại kỳ dị.
Một tù nhân bị cùm ở phòng bên thốt
ra một lời than vãn rầu rĩ: "Ôi, cán bộ! Tôi đã ở trong nhà tù 8 năm rồi và tôi
vẫn chưa được phép viết thư về nhà cho gia đình". Những lời than vãn của anh ta
còn nhắc đi nhắc lại.
Một cán bộ đến yêu cầu tù nhân đó im
lặng, giọng anh ta hạ thấp: "Tôi đã chuẩn bị đủ giấy và bút chì cho anh, anh đã
nhận được đầy đủ chưa? Anh muốn nói với tôi rằng anh chưa nhận được những thứ đó
phải không?”
Người tù trả lời: "Chưa! Tôi chưa
nhận được gì cả. Vì sao anh không cho phép tôi viết thư về nhà?".
Vị cán bộ này cười khẩy:
"Hãy quên vợ anh ở nhà đi! Và nên để
cô ấy lấy một người khác. Anh thật sự phải cố gắng cải tạo nhiều. Rồi anh có thể
được tha và cưới một người đàn bà khác".
Trong buổi tối ngày hôm sau các tù
binh của toán HADLEY bị khoá tay đưa ra khỏi nhà giam Hoả Lò và đưa lên một xe
tải nhỏ có mui kín. Chỉ có ánh sáng lọt vào qua một số dải nhựa trong tấm vải
bạt bên cạnh. Sau một chuyến đi tương đối ngắn, vùng ngoại ô của Hà Nội, những
người bảo vệ dồn tù binh ra khỏi xe và dẫn họ đến một ngôi chùa có cổng vòm xây
bằng gạch. Những chữ đã mòn, hầu như bị bụi thời gian che phủ chỉ ra rằng đó là
chùa Tân Lập, nhưng người ta thường quen gọi là chùa Thanh Trì, (tên của huyện
ngoại thành). Một số người gọi Thanh Liệt là tên làng đặt trại giam, cách Hà Nội
7 km về phía nam. Đó là một nhà giam đặc biệt, nhà giam phụ của Hoả Lò, giam các
tù nhân được Bộ Công an quan tâm đặc biệt.
Những người mới đến được giam trong
các phòng giam riêng biệt ở khu vực phía trong phạm vi khu vực A, một dãy nhà
dài nhìn ra giữa sân. Họ được lệnh phải giữ im lặng, nhưng điều đó chỉ làm tăng
thêm tò mò. Họ càng muốn được tiếp xúc với nhau để biết những phạm nhân có ở
trong trại giam này. Họ sớm suy ra rằng nhà giam này có 18 phòng giam ở phía
trước và 18 phòng giam ở phía sau. Các tên viết trên tường phòng giam cho thấy
rõ các biệt kích khác đã được giam ở Thanh Trì. Trong phòng giam 11 ở phía trước
khu vực A, ở phía cao trên tường có tên Đàm Văn Phinh: phía dưới tên của anh ta,
những chữ quốc ngữ cho biết quá trình Phinh đã bị giam đầu tiên ở các phòng giam
phía trước, sau đó được chuyển về các phòng giam phía sau và rồi lại chuyển đến
các phòng giam phía trước. Phinh đã là thành viên của toán EAGLE. Tất cả điều đó
chỉ còn lại cái tên của anh ta được vạch vào bức tường đầy bụi. Sau những ngày
im lặng cô đơn là những đêm của tử thần. Tử thần đã báo hiệu trong những lần
giám sát phòng giam theo định kỳ bằng những âm thanh nhất định. Mỗi cửa phòng
giam có một tấm tôn nhỏ để che kín khe hở. Người bảo vệ sẽ mở tấm tôn để xác
định các tù nhân trong phòng giam của mình có còn không.
Với người sống sau tấm tôn nhỏ này
khi đóng là phát lên tiếng kêu "tách" thật nhanh, gọn, sau đó lại yên lặng. Khi
người bảo vệ phát hiện một xác chết, những người lao công đến ngay tiếp theo
những tiếng động của cửa phòng giam mở ra, rồi kéo xác chết đưa ra khỏi phòng
giam. Việc chuyển xác chết thường làm vào ban đêm để tránh các con mắt tò mò,
như trường hợp của tù nhân ở phía sau khu vực A đã xé áo sơ mi của mình và tự
treo cổ trong tháng 2 năm 1968. Những tù nhân khác nghe thấy và đã gọi anh ta,
nhưng anh ta không bao giờ trả lời nữa. Một số người nói rằng anh ta đã không
hiểu được họ, vì anh ta là người Lào, một người dân tộc H'mông của tướng Vàng
Pao đã bị bắt ở biên giới phía Bắc.
Nhiều ngày góp lại thành các tuần,
rồi thành các tháng. Trong tháng 3 năm 1968, một người mới đến đi qua trước khu
vực A. Anh ta mặc bộ pijama sọc đỏ, đầu cạo trọc hoàn toàn. Trông anh ta giống
như Bạch Mười, một thành viên của toán T2, người được giữ lại ở Long Thành trong
tháng giêng năm 1967. Vài lần anh ta đi ngang qua sân có người bảo vệ. Mỗi lần
anh ta xuất hiện rất nhanh và sau đó, người ta không thấy anh nữa. Các tù nhân
chỉ biết được thời gian qua những lần người chỉ huy tù đọc báo thường là hai
hoặc ba lần trong mỗi tuần. Những lần đọc báo này nhằm làm cho họ lạc hướng
trong việc háo hức mò tìm trong một thế giới đen tối nơi chỉ có một chút ánh
sáng nhỏ nhoi lọt qua khe sát dưới cửa phòng giam. Trong những dịp này, đại uý
Lộc, người chỉ huy trại vóc người thấp, trạc tuổi 50, kéo chiếc ghế của mình ra
sân ở trước khu vực A, và đọc to các mục đã lựa chọn trên tờ báo Nhân dân hoặc
tờ Quân đội nhân dân, trong khoảng 1 giờ. Nghe giọng của ông ta các tù nhân có
thể biết ông ta là người Miền Nam, một cán bộ Việt Minh, thuộc "người tập kết"
ra Bắc năm 1954.
Mặc dù các bài báo đều có tính chất
chính trị, nhưng luôn luôn có điều gì đó, ở đôi chỗ, hướng những tù nhân biết về
ngày trong tuần, hoặc ngày đó hay ít nhất là tháng đó. đôi khi ông Lộc giao công
việc vặt này cho trung uý Hoan, trưởng Ban quản giáo của nhà tù, hoặc tiểu đội
trưởng Vương, người phụ trách nhà ăn. Thậm chí đôi khi giao cho cả trung sỹ Sử,
y tá của Trại giam đọc khi các sĩ quan mắc bận.
Ông Lộc thường mặc quần áo thường
phục, các sỹ quan công an khác đôi khi xuất hiện cũng ăn mặc như vậy; nhưng khi
ông ta mặc bộ đồng phục mầu rêu thẫm, áo khoác có các túi to và cổ có gắn quân
hiệu đỏ thì ông ta đi lại khệnh khạng như một con công. Các tù nhân Mỹ đến vào
cuối năm 1968, dường như họ mến trung uý Hoan hơn các sĩ quan khác. Luôn luôn
vui vẻ với nụ cười, người trung uý 40 tuổi này thỉnh thoảng lại cho thuốc lá.
Anh ta chỉ cao hơn 1,5 mét vì vậy người ta đặt tên kèm cho anh là "ông bé" hoặc
“ông lùn".
Các tù binh người Việt lấy làm ngạc
nhiên khi thấy những người Mỹ đến. Câu chuyện về các tù binh Mỹ dần dần lọt ra
ngoài. Sau này khi họ thuật lại những người lính biệt kích qua mã moóc, những
người Mỹ này đã bị bắt ở thành phố Huế trong cuộc tổng tấn công tháng 2 năm
1968. Họ có 13 người, tất cả cùng một nhóm trong đó có người Philipin. Những
người Mỹ này ít khi cho biết tên của họ. Những người mới đến phân ra bốn khu vực
chính của trại giam, một số ở chung trong một phòng rộng (tám người) ở khu C,
còn sáu người kia thì hai người một phòng ở khu B: các phòng 1,2 và 8. Trại giam
cũng còn một khu D, nhưng những người tù ở đây luôn luôn giữ bí mật.
Rõ ràng là ngay từ đầu không có
người Mỹ nào nói chuyện với bất kỳ người Việt Nam nào. Có lẽ cán bộ phụ trách
trại giam hy vọng rằng việc này sẽ ngăn chặn được sự giao tiếp, tuy nhiên họ đã
không thấy được một điều: nhiều lính biệt kích biết tiếng Anh. Vào tháng 9 năm
1968, các tù nhân người Mỹ và người Việt Nam ở khu B đã tổ chức một cuộc đàm
thoại ngắn. Việc này chính là do hai tù nhân Mỹ ở đó, Bob Olsen và Larry
Stark.
Olsen và một tù binh Mỹ khác là
những người đầu tiên đến phòng 2, khu B. Những lính biệt kích Việt Nam đã gõ tín
hiệu móc lên các bức tường để liên lạc với họ, và biết rằng ông ta là nhân viên
dân sự của tổ chức các kiến trúc sư và kỹ sư Thái Bình Dương. Một người Mỹ khác,
trạc độ năm mươi, chỉ ở đó một thời gian ngắn trước khi được chuyển đến phòng
biệt giam ở khu A.
Khi có người tù tiếp sau ở cùng
buồng của Olsen đến, anh ta la hét và nói lảm nhảm suốt. Khó mà hiểu được anh ta
nói gì, nhưng rõ ràng là anh ta đang gọi tên vợ mình, lặp đi lặp lại và luôn
luôn la hét. Những người bảo vệ Việt Nam trị tội la hét rất nghiêm và khi thấy
tiếng la hét họ thường chạy đến. Khu B yên lặng hẳn khi người cùng phòng với
Olsen bị đánh ngất xỉu. Qua hai ngày sau, anh ta lại tiếp tục rên rỉ và la hét,
và sau mỗi lần bị những người bảo vệ đánh thì anh ta mới chịu yên lặng. Anh ta
bị đưa trở lại khu A lớn. Olsen trả lời rằng người cùng phòng trước của anh ta
thật là "điên khùng". Phải đến những năm sau này các biệt kích Việt Nam mới biết
rằng anh ta đang mô tả tình hình của một người mà không cho biết tên.
Người cùng phòng tiếp theo của Olsen
và Larry Stark, anh ta không biết tín hiệu móc. Olsen kiên trì dạy anh ta mã móc
trong một tháng để anh ta có thể giao tiếp với các biệt kích Việt Nam trong khu
trại giam. Stark nói rằng anh ta là đại uý hải quân, trước đây đóng ở Đức, và đã
ở thành phố Huế 6 tháng trước khi bị bắt.
Những người tù trong khu A đã có thể
nói thầm qua cửa với những người ở phòng bên và biết được tung tích của họ.
Những người ở khu B không có lợi thế đó, trừ số ít người may mắn đã xoáy được
một đinh để đục các lỗ nhỏ ở cánh cửa. Các lỗ này đủ để nhìn thấy thế giới bên
ngoài, thậm chí họ chỉ thấy những người tù khác và cán bộ đi lại. Một chiếc nút
bằng vải nhỏ bịt các lỗ này cũng đủ làm cho những người bảo vệ không phát hiện
được sự ngụy trang đó. Trong 8 tháng sau nhiều tù nhân đã nhìn thế giới bên
ngoài qua các lỗ nhỏ đó.
Vì sự bố trí của các phòng giam, lỗ
đinh này cho phép một người tù có thể thấy tất cả mọi người vào lúc ăn cơm.
Những người bảo vệ khi đến một phòng mở khoá cửa và cho phép tù nhân đó bước ra
ngoài để lấy bát thức ăn rồi sau đó khoá cửa trước khi đi sang phòng
bên.
Những người biệt kích không bao giờ
biết được tung tích một số người trong khu B, kể cả những người ở phòng 1 và 8.
Những người tù ở phòng 8 mặc đồng phục màu xanh có sọc trắng. Một người trong số
họ trạc 50 tuổi và thấp so với một người Mỹ. Người cùng phòng với anh ta thì rất
mảnh mai, cao và trẻ hơn. Sáu người Mỹ này được chuyển đến khu C trong tháng 3
năm 1969, và những người biệt kích Việt Nam không còn giao tiếp với họ nữa.
Những chuyến bay định kỳ của máy bay Mỹ luôn luôn động viên tinh thần của các tù
nhân Mỹ ở Thanh Trì. Tiếng máy bay phản lực bay nhanh và thấp làm cho họ rất
mừng, liền sau đó những người bảo vệ chạy tới và quát họ phải im lặng. Máy bay
thường bay đến bất ngờ. Hầu như vào lúc tiếng còi báo động vang lên, đều đều và
kéo dài trong khoảng 2 phút, kèm theo lời thông báo qua hệ thống truyền thanh mà
tất cả những người tù có thể nghe được "Đồng bào chú ý! Đồng báo chú ý! Máy bay
địch cách Hà Nội 80 km đang bay về phía Thủ đô từ hướng Đông Nam". Lời loan báo
máy bay Mỹ luôn luôn bắt đầu như vậy khi còn cách xa 80 km. Trong vòng không hơn
một phút, lời loan báo sau là: "Máy bay địch cách 30 km, yêu cầu toàn thể đồng
bào xuống các hầm trú ẩn". Đại uý Lộc đi quanh trại giam và bảo mọi người đừng
sợ. Họ chỉ cần chui xuống gầm giường khi máy bay đến. Ông ta luôn nhấn mạnh:
"Không có gì phải lo lắng, không có gì phải lo lắng".
Những chuyến bay ban đêm thì luôn
luôn ngoạn mục. Máy bay đến ở tầm thấp, hình như cánh của chúng chĩa ra phía
sau, bay qua trại giam trước khi mọi người nhận ra chúng. Lực lượng an ninh của
trại giam và dân quân địa phương triển khai với đủ loại vũ khí sẵn có. Pháo sáng
cháy rực bầu trời. Qua các ô thoáng nhỏ trên các bức tường, các tù nhân có thể
nhìn thấy pháo sáng khi chúng được bắn lên từng đợt. Người Bắc Việt Nam không
bao giờ lãng phí, chờ cho máy bay sà xuống thấp và ngay thời điểm đó họ bắn các
loạt đạn đầu, các máy bay phản lực vội bay đi.
Một tù nhân người Việt đến buồng 6
trong khu B. Anh ta ngồi trong phòng giam 3 ngày, những người bảo vệ chuyển thức
ăn cho những tù nhân khác nhưng không chuyển cho anh ta. Cuối cùng anh ta cảm
thấy đói thực sự. Anh ta than vãn:"Cán bộ ơi, tôi đói lắm, tôi đói thật. Sao các
ông không cho tôi ăn?". Anh ta than vãn liên tiếp trong 3 ngày, nhưng những
người bảo vệ vẫn phớt lờ.
Sau đó Lê Văn Ngung ở phòng 3 bắt
đầu ngân nga hát. Tiếng hát của anh ta vọng đến tai những người bảo
vệ.
Những lời kêu rên vì đói đã không
làm ai sốt ruột. Bị đói không trái với luật lệ về qui định của nhà tù, thậm chí
được phép phàn nàn về cái đói và được tự chết vì đói. Còn các cán bộ nhà tù lập
luận rằng đói là chuyện thường tình xảy ra trong nhà tù. Vì sao phải sốt ruột
chỉ vì một vài biệt kích đói?
Nhưng hát thì dứt khoát không được
phép. Người bảo vệ chạy đến phòng của Ngung và nút chiếc nắp đậy khe hở ở cánh
cửa: "Ai cho phép anh hát?", người bảo vệ la lớn qua chiếc cửa sắt.
"Vì tôi buồn", Ngung nghẹn ngào trả
lời.
“Vì sao anh buồn?", người bảo vệ hỏi
tỏ vẻ lúng túng.
"Vâng, tôi buồn vì sợ rằng ngày mai
tôi sẽ không được ăn."
"Vì sao anh nói vậy?", người bảo vệ
hỏi với giọng nghiêm khắc nhưng có phần tò mò.
"Thật đấy, người tù này đã bị lỡ độ
đường, dù hắn là ai đi nữa, trong những ngày qua đã không có chút thức ăn nào.
Anh ta nằm đó rên rỉ và than vãn. Chính vì vậy mà tôi buồn. Nếu người tù đó đã
không có chút thức ăn nào trong nhiều ngày thì tôi sợ rằng có thể ngày mai sẽ
đến lượt tôi, sẽ không được chút thức ăn nào". Tiếng nói của Ngung tan biến
trong im lặng. Người bảo vệ này đi gọi trung sỹ Du, người phụ trách nấu bếp,
trung sỹ Du đến với vẻ bực tức và đứng ở đấy khi cánh cửa phòng giam mở ra: ”Anh
là đồ nói dối", Du nói to với người tù ở phòng số 6. "Vì sao anh nói rằng anh đã
không ăn gì? Anh đã được cấp thức ăn cơ mà?". Qua giọng nói của anh ta người ta
có thể thấy rằng anh ta đang cố lấp liếm một sự thật là anh ta chưa cho người tù
này một thứ gì.
“Không thưa cán bộ", tiếng trả lời
nhỏ nhẹ, "tôi chưa nhận được một thứ gì từ khi tôi đến. Tôi rất đói và quá đói
đã mấy ngày nay".
Sau khi trung sỹ Du rời đi, người
bảo vệ lẻn vào phòng giam, anh ta hỏi: "Anh bị bắt ở đâu?". "Ở biên giới", câu
trả lời bằng tiếng miền Bắc nhưng với giọng nặng và lạ.
Ngung có thể thấy người tù này có
nước da sáng, rõ ràng là anh ta chưa ngồi tù lâu. Anh ta là ai? Lào? Có phải là
anh ta ở một toán quan sát đường? Tù nhân này được chuyển đến khu A trong vài
ngày, và Ngung không bao giờ còn thấy anh ta nữa.
Trong khi trại giam Thanh Trì trở
thành trại giam biệt kích đầu tiên trong hệ thống trại giam của Bắc Việt, hầu
như cái nghề trưởng bộ phận nhà ăn ở trại giam của tiểu dội trưởng Lê Văn Vượng
trong lực lượng an ninh đã kết thúc. Nhiều người miền Bắc rất sợ loại tai họa
này khi họ phải khai bổ sung lý lịch cá nhân hàng năm và phải kê khai bất kỳ
người bà con nào đã vào miền Nam năm 1954 trong thời gian chia cắt đất
nước.
Năm 1968, trong khi kiểm tra thức ăn
cấp cho những tù nhân mới được chuyển đến khu B, tiểu đội trưởng Vượng lần đầu
tiên đã trực tiếp đối mặt với các tù nhân mới. Khi anh ta mở phòng 3, một lính
biệt kích bước ra để nhận bát ăn thức ăn của mình rồi bước vào phòng giam, không
nhìn người bảo vệ hoặc tiểu đội trưởng Vượng.
Không! Không thể như vậy được. Tiểu
đội trưởng Vượng cảm thấy như bị sét đánh. Người tù đó chính là cháu anh ta, Lê
Văn Ngung.
Không thể như thế được! Nó không thể
ở đây. Ngung trạc khoảng 25 tuổi; Vượng đã không thấy hắn từ lâu trước năm 1954,
khi gia đình Ngung chuyển từ Hà Đông ra Hà Nội.
Vượng bỗng thấy mình rơi vào hoàn
cảnh trầm trọng. Anh ta luôn luôn biết rằng anh có một người anh cùng cha khác
mẹ đã mất tích năm 1955. Anh không biết người đó còn sống hay đã chết. Vượng đã
hết lòng phục vụ Cách mạng, và tương lai của anh đã được bảo đảm bởi sự phục vụ
đó. Nhưng bây giờ tất cả đã trở nên nguy hiểm. Anh cố đứng thẳng để che giấu sự
run sợ ở bên trong.
Ngung đã biết chắc về Vượng. Anh ta
cũng đã ngỡ ngàng khi thấy Vượng lần đầu mấy tháng trước, khi anh đọc báo cho
những người tù ở khu A nghe. Anh đã nắm chắc đó là ông chú của mình và muốn
tránh Vượng bằng bất cứ giá nào. Trong đôi mắt của Ngung, do đã sống và làm việc
với những người Cộng sản thì rõ ràng chú anh là một người phản động. Ngung biết
rằng mọi sự thừa nhận công khai về ông chú lúc này có thể gây nhiều vấn đề phức
tạp, đặc biệt là với Ngung đã bị đói. Bây giờ phải yêu cầu ông chú cho ăn là
hoàn toàn vô lý.
Tuần lễ sau đó, khi Ngung đi ra bể
nước ở trước các phòng giam khu B để tắm, thì Vượng đang đứng đó nói chuyện với
một người bảo vệ. Anh ta nhìn người cháu và ra hiệu trong khi vẫn nói chuyện với
người bảo vệ đó "Anh có thấy người kia không? Anh ta là người cùng làng với
tôi". Ngung phớt lờ anh ta.
Một tuần lễ sau trung uý Hoan lệnh
cho Ngung đến phòng quản giáo của trại giam. Hoan đang ngồi đó ở sau chiếc bàn
và có chú của Ngung ngồi bên cạnh. Hoan ra hiệu cho Ngung ngồi xuống chiếc ghế
đối diện với họ.
Hoan bắt đầu "Nào, hãy cho tôi biết
anh đã học được gì về hệ thống của chúng tôi ở đây?" Ông ta muốn nói về hệ thống
Cộng sản ở Bắc Việt.
Ngung trả lời thắng thắn: "Tôi không
hiểu gì về hệ thống ở đây. Làm sao mà tôi hiểu được? Cả ngày tôi chỉ ở một mình
trong phòng giam đóng kín như bưng".
Hoan nhìn anh ta tò mò: "Anh muốn
nói rằng anh không thấy tất cả mọi việc ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vĩ đại
là tốt hơn phải không?"
Ngung trả lời "Không, tôi không thấy
điều đó".
Trung uý Hoan ngồi đó im lặng, suy
nghĩ và cân nhắc.
"Nếu chúng tôi cho phép anh trở về
thăm làng của anh, liệu anh có thể nhớ được đường về làng đó không?".
Ngung biết con đường đó, nhưng vì đã
lâu nên anh ta chỉ nhớ con đường đó một cách mơ hồ. Lúc đó anh mới 11 tuổi vào
lúc kết thúc cuộc chiến tranh trước, nhưng anh ta không muốn thú nhận rằng anh
biết đường về nhà với một người như trung uý Hoan.
Ngung trả lời "Không, tôi không nhớ
rõ những con đường đó. Từ khi tôi ở đó đến nay đã 20 năm. Đúng là tôi không còn
nhớ gì về những con đường đó". Giọng nói của anh ta lịm đi tan biến.
Hoan tiếp tục nói: “Thôi được, vậy
anh có thể nhớ một người bà con nào nếu anh gặp họ không? Anh có thể nhớ ra họ
nếu anh gặp lại họ không?"
Câu hỏi này bỗng làm Ngung sững sờ.
Điều gì phải đến đã đến. Điều đó có nghĩa là Vượng đã báo cáo việc nhận ra Lê
Văn Ngung, người tù biệt kích này là cháu của anh ta. Điều quan trọng bây giờ là
phải tránh mọi sự thừa nhận rằng anh ta đã nhận ra chú mình.
"Không, chằng có cách nào để nhớ
được, vì đã quá nhiều năm. Khi đó tôi còn quá trẻ".
Họ đột ngột ngừng hỏi Ngung và đưa
trả về phòng giam.Tiểu đội trưởng Vượng đã tự thừa nhận một thực tế là đứa con
trai của anh mình là một tù nhân, nhưng không thể làm gì để giúp anh ta.Anh phải
nghĩ về cuộc sống của chính mình. Bởi vì một người cháu như vậy có thể làm thay
đổi toàn bộ sự nghiệp của một người.
Để quên cái chết và nỗi thất vọng ở
Thanh Trì thì có những lúc sự vui đùa là liều thuốc tốt nhất. Một trong những
lần đó đến với Lê Văn Ngung là khi anh ta bắt được một chú chuột nhỏ đang chạy
loanh quanh trong phòng giam của mình. Anh dùng một chiếc'kim nhỏ và sợi chỉ để
xâu qua các tai của nó. Trên một mảnh giấy chỉ bằng một chiếc tem thư, anh ta đã
cẩn thận viết các chữ in bằng mực làm bằng gạch đã được nghiền thành bột. Sau đó
anh ta cẩn thận xâu sợi chỉ qua một lỗ nhỏ ở mỗi góc trên của mảnh giấy và thắt
chặt các đầu. Anh nhìn con chuột đang giữ chặt ở lưng bị buộc một mảnh giấy nhỏ
ở dưới cổ giống như một chiếc vòng đeo cổ.
Ngung quỳ xuống bên cứa và từ từ đẩy
con chuột ra ngoài một cách cẩn thận để khỏi làm rách mẩu giấy. Con chuột chạy
như điên ra ngoài về bên phải tới phòng giam của Larry Stark. Sau vài phút yên
lặng. Larry Stark gõ nhẹ qua bức tường "Con chuột này ở chỗ anh đến phải
không?"
Ngung ngồi đó, trên mặt sàn, chân
bắt chéo, đầu cúi xuống, cười khoái trá. Anh cầm chắc đinh gỉ trong tay để đánh
tín hiệu trả lời: “Vâng!".
Ngung biết rằng Larry đang cười. Anh
không thể nghe thấy, nhưng có thể cảm thấy phản ứng của anh ta. Ngung mỉm cười
thoải mái, sau chuyển sang cười thành tiếng. Rồi bỗng cười phá lên. Anh cố phá
tan im lặng để người bảo vệ nghe thấy cho đến khi rát cả họng. Anh biết Larry sẽ
đánh giá cao tính hài hước và cách làm công việc này. Ngung hy vọng rằng Larry
đã không chuyển con chuột đó đến một người nào khác. Bất cứ ai thấy chiếc biển
con trên con chuột với các chữ "con cáo ranh mãnh" tự nhiên sẽ biết rằng chiếc
biển đó do một người Việt Nam làm. Sau đó những người bảo vệ mù chữ tự cho là ai
đó đã diễu cợt và người đó sẽ sang địa ngục.
Cuối cùng thì các cuộc hành quân bán
quân sự bí mật của Washington chống lại Bắc Việt Nam cũng đi đến kết thúc. Vào
ngày 22 tháng Giêng, mười ngày trước cuộc tổng tấn công mùa xuân 1968. Bộ tư
lệnh Thái Bình Dương sẽ quyết định không tăng cường toán RED DRAGON và ngày 5
tháng 3, huỷ bỏ các kế hoạch sử dụng toán AXE. Washington đã dự kiến giới hạn
ném bom vào ngày 1 tháng 4, và thêm một bằng chứng nữa là giới hạn các phi vụ
giữa vĩ tuyến 17 và 19 từ 13 tháng 3 và giới hạn các cuộc hành quân ra phía bắc
vĩ tuyến 20 vào ngày 4 tháng 4. Các cuộc hành quân trinh sát của STRATA vào vùng
cán xoong ở phía Bắc của Bắc Việt, dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh tiếp tục phải
được chuẩn y theo từng trường hợp một, khi các phi vụ tái cung cấp của RED
DRAGON và REMUS đã được xếp vào ngăn kéo vào ngày 13 tháng 4. Các cuộc hành quân
tâm lý chiến của REMUS đã bị huỷ vào ngày 15 tháng 5.
Ngày 21 tháng 5, Bộ tư lệnh Thái
Bình Dương đã gửi đi nội dung của kế hoạch xem lại tất cả các toán biệt kích tại
chỗ và bắt phải giới hạn việc tái tiếp tế khẩn cấp vào ngày hôm sau. Theo lệnh
ngày 3 tháng 7, các cuộc hành quân trên biển được phép tiếp tục đến vĩ tuyến 20.
Ngày 27 tháng 7, mọi việc tái tiếp tế khẩn cấp cho các toán biệt kích hoạt động
tại chỗ đã bị đình chỉ để chở kết quả chính thức của việc phân tích tình trạng
an toàn của các toán này. Một phi vụ máy bay lên thẳng để hỗ trợ toán HADLEY đã
bị hủy bỏ ngày 18 tháng 8. Các cuộc hành quân của biệt kích chủ bài ở địa bàn
thành phố Vinh đã bị đình lại ngày 8 tháng 9; việc tái tiếp tế cho toán
TOURBILLON cuối cùng đã bị thương tổn vào ngày 30 tháng 9, các cuộc hành quân
đường biển đã bị đình chỉ ngày 7 tháng 10, và cuối cùng, ngày 1 tháng 11, ngay
trước cuộc tổng tuyển cừ 1968 ở Mỹ, toàn bộ cuộc hành quân bán quân sự chống lại
Bắc Việt Nam, được người ta biết theo tên mã là Footboy đã hoàn toàn kết
thúc.
Trong năm 1964, kế hoạch 34A đã được
miêu tả chân thực khi gửi đi một đoạn tin nói rằng những người nhận nó không
định nghe. Các lực lượng Quân đội nhân dân ở miền Nam đã bị tiêu hao nhiều trong
cuộc Tổng tấn công mùa xuân 1968, và hệ thống hậu cần của họ ở vùng cực nam buộc
phải rút sang Campuchia, việc ngừng ném bom làm cho Hà Nội phải ân xá nhiều tù
binh, khi Washington đang tìm các giải pháp trong các cuộc đàm phán mật ở Paris.
Trong năm 1968, Hà Nội có các mục tiêu riêng của mình, chắc chắn trong tầm tay,
thậm chí nếu các mục tiêu này còn xa đến 7 năm.
Quyết định mùa xuân 1968 của chính
quyền Johnson về chương trình xuống thang là một thủ đoạn chính trị thô thiển
nhằm thu thêm phiếu bầu cho những người Đảng Dân chủ trong cuộc tổng tuyển cử
ngày 3 tháng 11. Trong thực tế khái niệm rút lui đã hình thành trong giai đoạn
lập kế hoạch quân sự ở Sài Gòn, ít nhất là từ năm 1966.
Chiến tranh sẽ kết thúc. Với tất cả
các sự việc này, yếu tố chủ yếu chỉ còn là thời gian. Những người lính biệt kích
ở sâu trong các trại giam của Bắc Việt đã không biết đến những quyết định xuống
thang này. Họ không nhận thức được về các hoạt động dẫn đến kết thúc việc trả
lương cho họ, khi họ bị xoá tên trong các sổ sách quản lý của MACSOG, Liên đoàn
quan sát thuộc Bộ Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ.
16. LÀM RÕ SỰ
THẬT.
Mùa thu năm 1968, phòng 2 trong khu
B nhận một người mới-Phạm Việt Phúc, một điệp báo viên của toán HADLEY! Trong
suốt thời gian đó anh ta ở đâu và đang làm gì? Lê Văn Ngung thấy người bảo vệ mở
cửa buồng 2 và Phúc bước ra để nhận một bát thức ăn khá lớn.
Một bát to! Và anh ta còn có cả thịt
nữa chứ!
Ngung bắt đầu đánh moóc lên tường để
gây sự chú ý của Phúc. Việc này đã có kết quả? Phúc trả lời, nhưng anh ta tránh
trả lời bất kỳ câu hỏi trực tiếp nào về việc anh ta đã ở đâu, đã làm gì, và vì
sao được xuất ăn nhiều hơn bình thường cùng với cả thịt. Anh ta có thuốc lá,
thuốc đánh răng và cả dầu để thắp sáng nữa!
Những tù nhân khác của toán HADLEY
không bao giờ có được những thứ như vậy. Ngung đánh moóc nhấn đi nhấn lại với
Phúc: "Anh được nhiều thức ăn hơn tôi".
"Đâu có, chúng ta đều có được một
thứ như nhau. Vậy anh bảo tôi có nhiều hơn là có hàm ý gì?"
Đó là điều mà Ngung hy vọng mở đầu
câu chuyện, anh ta đánh moóc lại: "Được tôi sẽ xem ngày mai ăn gì và tôi sẽ nói
cho anh rõ đó là cái gì".
Ngày hôm sau, Ngung dán mắt nhìn qua
lỗ cửa khi Phúc bước ra ngoài phòng giam để lấy bữa ăn trưa. Anh ta chờ cho đến
khi người bảo vệ đã rời đi.
Phúc đánh moóc trước "Nào hãy nói
với tôi hôm nay tôi có gì để ăn?"
Ngung trả lời ngay "Anh có cơm và
cải xoong".
Phúc hỏi "Tôi có cái gì khác
nữa?"
Ngưng trả lời rất thận trọng: "Hôm
nay anh có thịt.”
Phúc hoảng sợ, anh biết rằng chắc
Ngung đã thấy thức ăn của mình và suy ra rằng anh ta đang được đối xử ưu tiên
hơn. Ngung nói "Trông anh khá đấy, còn tôi thì còm nhom."
Phúc im lặng. Ngung biết rằng mình
đã mở mà và anh ta tiến tới. Ngung hỏi: "Anh đã liên lạc với ban chỉ huy bao lâu
rồi?”. Phúc đáp: "Đâu có! Tôi chẳng liên lạc với ai".
"Tôi biết là anh có. Tôi biết điều
này từ trước khi chúng ta còn ở Hà Tĩnh. Ngay sau khi chúng ta bị bắt, tôi biết
ngay từ đó anh đã sử dụng điện đài". Đó là một thủ đoạn.
Cuối cùng Phúc đầu hàng. "Tôi đã
liên lạc với Ban chỉ huy. Những người Cộng sản ép tôi phải sử dụng điện
đài".
Ngung hỏi: "Có toán nào được phái ra
tăng cường cho chúng ta hay không?”
Đầu tiên Phúc trả lời là không có
những người thay thế. Ngung lại doạ Phúc: "Tôi biết là có. Một cán bộ đã bảo tôi
như vậy. Họ bảo tôi rằng có một toán đã đến".
Cuối cùng Phúc diu giọng: "Tôi nghĩ
là có một toán". Ngung nhấn mạnh "Có phải toán Trần Hiếu Hoa không?"
"Người ta… có một danh sách… các tên
rất lạ.”
"Có bao nhiêu người trong toán
này?"
"Chắc phải có 6-7-8
người.”
Ngung biết rằng Phúc đang lẩn tránh
và nói dối về thành phần của toán. Khoảng 3 tháng sau, Nguyễn Thế Khoa, điện báo
viên thứ 2 của toán đó cùng ở với Phúc trong phòng 3. Ngung hỏi Khoa về toán
thay thế. Khoa trả lời đúng là có toán thay thế, nhưng máy bay trực thăng của họ
đã bị pháo mặt đất bắn hạ. Đại uý Dũng đã ở trên máy bay đó và bị bắt làm tù
binh. Khoa cũng bảo Ngung rằng anh đã liên lạc bằng radio với một kỹ sư ở Bắc
Việt tại Hà Tĩnh, anh ta hình như là một biệt kích hoạt động tại chỗ của Bộ chỉ
huy. Người kỹ sư đó bố trí để gặp Khoa ở một địa điểm nào đó và nói anh ta sẽ
giúp Khoa lọt ra, nhưng cuộc gặp đó không bao giờ xảy ra.
Ngung trả lời một cách bực tức rằng
Khoa đã nói dối như đồ chó đẻ. Anh ta kết tội Khoa đã bịa ra câu chuyện về người
kỹ sư đã nỗ lực để trở lại Nam Việt Nam. Sau khi chửi rủa, Ngung bảo Khoa rằng
anh ta đã biết từ đầu rằng Khoa sợ chết vì cộng sản hơn anh ta. Khoa trả lời yếu
ớt rằng nếu Ngung không tin anh ta thì anh ta không thể nói gì hơn. Rõ ràng là
Khoa không thích nói về công việc mình đã tiến hành trên điện đài. Đầu tiên anh
ta cố giải thích điều đó ngay, nên nói rằng anh đã gặp hoàn cảnh khó khăn vì đã
cố gắng để báo cho Bộ chỉ huy biết anh ta đang hoạt động dưới sự điều khiển của
Bắc Việt. Khoa biết rằng người Mỹ đã lấy mẫu băng ghi âm mã moóc phát sóng của
anh, khi thấy có những đặc tính đặc biệt mà người ta đã biết là "cách điều
khiển" của anh. Khoa nói rằng trong lúc phát sóng cho Bắc Việt, anh đã thận
trọng kéo dài một số đặc điểm để thay đổi cách đánh, hy vọng rằng Bộ chỉ huy có
thể so sánh với băng ghi mẫu tại ở Long Thành có âm thanh của cách đánh qua
không trung từ Hà Tĩnh và kết luận rằng có điều gì đó đã trục trặc. Rõ ràng là
điều đó đã không đem lại kết quả vì các buổi phát sóng từ trụ sở của toán đó vẫn
tiếp tục.
Những điện báo viên được thu dụng
khác sau đó khai rằng đại uý Dũng đã chỉ thị cho họ hợp tác nếu họ bị bắt và làm
bất cứ điều gì người ta yêu cầu họ làm để tự bảo vệ. Đại uý Dũng không bao giờ
nói như vậy trong lúc anh ta chỉ dẫn cho toán HADLEY. Và Ngung kết luận rằng
những điện báo viên được thu dụng đã nói dối.
Khoa và Phúc đã sớm dược chuyển đi
nơi khác, và phòng của họ có một số người mới đến ở Với chiếc giũa móng tay đã
khá mòn. Ngung bắt đầu vạch các nét vạch dài, ngắn quen thuộc.
“Đa đit đit đit đa". Đó là mã móc
của tín hiệu "BT". Đó là tín hiệu mã các điện báo viên phải đánh đi đầu tiên khi
họ truyền tin qua không trung, điều đó có nghĩa là họ sẵn sàng bắt đầu phát
sóng.
"Đa đít đa", người tù mới trả lời
bằng mã móc cho "K", có nghĩa là người điện báo viên ở đầu kia đã sẵn sàng để
truyền tin. Aaa! Một điện báo viên khác!
Những nét gạch hầu như không phát ra
âm thanh được tiếp tục giữa các phòng.
"Anh là ai?”
"Trương Tuấn Hoàng"
"Anh là ai?", một mã gạch chuyển đến
từ người tù không trông thấy ở phòng 3.
Ngung trả lời bằng bí danh "Lê
Nhất".
Trương Tuấn Hoàng nhanh chóng trả
lời: "Anh có phải là người chỉ huy của toán T không?"
“Đúng?"
Hoàng tiếp tục: "Không thể tin được!
Người ta cho rằng anh đã chết! Đại uý Dung nói có tin là anh đã chết, anh đã bị
rắn độc cắn chết. Anh không bao giờ tiếp tục đánh điện nữa vì anh đã
chết."
Ngung choáng váng, không thể tin
được rằng Bộ chỉ huy đã nhắc lại tin này, một sự vi phạm cơ bản của bất cứ thủ
tục an toàn về vận hành nào, dù nó là hư hay thực. Điều đó không có ý nghĩa gì
đối với Ngung.
"Anh nhảy xuống khi nào?"
"Vào ngày 18/8/1967 cùng với Đỗ Văn
Tám. Anh đã biết Đỗ Văn Tám là người mà chúng ta gọi là Tám mộc. Chúng ta là
nhóm tăng cường cuối cùng cho toán REMUS, Tám đang ở đâu đây."
"Vì sao anh bị bắt?"
Trương Tuấn Hoàng không trả lời. Sau
một thời gian ngắn ở phòng 3, Hoàng đã được chuyển sang khu C.
Trong vòng vài ngày, Ngung nhận thấy
có điều gì không ổn khi một cán bộ bỗng nhiên vào phòng giam của anh và kiểm tra
phòng cẩn thận. Dường như cán bộ này đang tìm kiếm một vật gì đặc biệt. Bỗng
nhiên người cán bộ đi về phía trước và chỉ vào một số dấu vạch trên bức tường.
Mọi điện báo viên trong trại giam đều biết đó là gì, những dấu vạch nhẹ bằng
đinh lên lớp vữa mềm khi người tù vạch các dấu gạch dài và ngắn tạo thành các
vạch ngang và dấu chấm của mã móc-không cần bàn cãi gì nữa, đó là bằng chứng của
việc liên lạc. Cán bộ này hỏi: "Cái gì đây?"
Ngung nói: "Tôi hoàn toàn không có ý
đồ gì".
"Anh đừng giả vờ! Đi theo tôi!",
Ngung được hộ tống đến trụ sở nhà giam ở phòng quản chế. Năm cán bộ đang ngồi
đọc báo bên chiếc bàn. Người cán bộ, trạc 30 tuổi mặc quần áo thường phục là
người có giọng nói Hà Nội và nói tiếng Anh rất giỏi, làm phiên dịch cho tù binh
Mỹ; trung uý Vượng, sỹ quan thường trực của trại giam; trung uý Hoan, trưởng ban
quản giáo; đại uý Lộc, chỉ huy trại giam và một sỹ quan trẻ thực hiện các việc
vặt cho Lộc. Ngung được chỉ ngồi vào chiếc ghế ở phía đối diện của bàn và 5
người. Họ nhìn anh ta trừng trừng.
Ngung kêu to "Thưa cán bộ !", đó là
cách xưng hô của mọi tù nhân với cán bộ.
Hoan bắt đầu "Hôm nay anh có khoẻ
không?", giọng anh ta thân mật và có vẻ quan tâm.
"Thưa cán bộ, hôm nay tôi không được
khoẻ lắm", Ngung trả lời, giọng anh ta hạ thấp dường như anh bị ốm.
Hoan tiếp tục cách nói đùa thân mật:
"Anh nghĩ thế nào về việc cải huấn từ lúc anh đến đây?"
“Thật tình tôi chưa nghĩ về điều
này. Tôi không hiểu nó là gì?"
“Tức là anh thật sự cố ý không hiểu
chế độ miền Bắc của chúng tôi phải không?”
"Thưa cán bộ, tôi không nhận thức
được điều gì. Tôi không có cái gì để đọc. Tôi luôn luôn ở trong phòng giam. Ở đó
chẳng có gì để nhận biết trong bóng tối. Chỉ có bốn bức tường của phòng giam.
Mỗi ngày tôi được ăn 2 bữa. Đó là tất cả những diều mà tôi biết".
Hoan nói:"Vậy thì hãy cho chúng tôi
biết anh ở Miền Nam lúc nào, anh học được bao lâu? Anh đã học đến cấp
nào?"
"Thưa cán bộ, sức học của tôi chỉ ở
mức trung bình".
"Còn tiếng Anh thì sao? Anh có biết
tiếng Anh không?"
"Có ạ, tôi đã học một ít khi còn ở
nhà trường. Nhưng như ông biết, đến nay đã quá lâu hầu như tôi đã quên hết. Vả
lại tôi chỉ học trong vài năm, và sau đó mỗi tuần chỉ học một hai giờ". Giọng
nói của Ngung yếu dần đi.
"Anh có biết về quốc tịch của những
tù nhân ở phòng bên cạnh phòng anh không?”
“Tôi có thể nghe các âm thanh, tiếng
nói của những người ở phòng giam bên cạnh, nhưng không rõ lắm. Tôi không biết họ
là ai. Họ có thể là người Trung Quốc, Pháp hoặc gì đó. Tôi không biết, tuy vậy
tôi chắc chắn họ là những người nước ngoài".
Anh có biết rằng những người Mỹ đang
ở trong phòng bên cạnh phòng anh không?"
"Không, tôi không biết. Tôi không
biết họ là ai, chỉ biết rằng chắc chắn họ là người nước ngoài".
"Anh có nghĩ rằng anh có thể nói
tiếng Anh với một người Mỹ?"
"Thưa cán bộ, khi còn đi học tôi đã
học nói và viết tiếng Anh. Đã lâu rồi hầu như tôi quên hết".
"Nếu chúng tôi cho phép anh nói
chuyện với một người Mỹ, anh có thể nói chuyện với người đó không?"
"Thưa cán bộ, tôi đã học thứ tiếng
này lâu lắm rồi…". Giọng của Nhung chìm xuống.
“Anh đã giao tiếp với những người
Mỹ! Anh đã nói chuyện với những người Mỹ!", giọng nói của ông ta thay đổi, nhấn
đi nhấn lại với vẻ đe doạ.
"Tuyệt đối không? Tôi chưa giao tiếp
với họ. Vả lại tôi không thể nói chuyện với họ. Làm sao tôi có thể nói? Người
bảo vệ luôn đứng ngay phía ngoài các phòng gian. Những người bảo vệ không cho
phép nói gì".
"Vậy hãy cho chúng tôi biết một lần
nữa. Có lúc nào anh đã giao tiếp với những người Mỹ chưa?"
"Không, không bao giờ".
“Hãy nói sự thật. Anh phải nói sự
thật, nói tất cả mọi điều.”
"Tôi đang nói sự thật với ông. Thậm
chí tôi không biết đủ tiếng Anh để giao tiếp với bất kỳ người Mỹ
nào".
Lúc này anh ta nói chậm lại, nhấn
vào từng chữ: "Hãy nói với chúng tôi về sự thật".
"Tôi đang nói với ông về sự
thật."
"Được rồi. Chúng tôi sẽ để anh quay
về phòng giam. Chúng tôi muốn anh suy nghĩ qua bữa trưa rồi anh sẽ trở lại gặp
chúng tôi chiều hôm nay, và chúng ta sẽ nói chuyện thêm về điều này".
Ngung trở về phòng giam của mình.
Anh chờ qua bữa trưa, cả buổi chiều và buổi tối, nhưng không có ai gọi lại
anh.
Sáng hôm sau, người bảo vệ đến phòng
giam của Ngung và hộ tống anh về Ban quản giáo. Đang chờ anh có trung uý Vượng,
trung uý Hoan và một phiên dịch tiếng Anh không quen biết.
“Bây giờ anh có muốn nói gì khi anh
đã có thời gian để suy nghĩ lại?"
"Thưa cán bộ. Không có gì thay
đổi."
"Anh thật là bướng bỉnh! Hai người
đã nhận dạng anh, anh là người nói dối!"
Hoan đưa tay xuống và kéo ngăn kéo ở
chiếc bàn của anh. Anh lấy ra một túm tăm nhỏ bằng vải nylông. Ngung nhận ra nó
ngay. Anh đã làm ra nó bằng tay trong phòng giam của mình và tặng cho Larry
Stark và Bob Olsen.
"Anh có biết cái này
không?"
Ngung ngồi đó không nói, mắt trừng
trừng. Điều đó có nghĩa là người cán bộ này đã khám phá ra việc anh ta liên lạc
với Stark và Olsen. Thật đáng ngạc nhiên, người trung uý này không đưa ra chiếc
khăn tay mà Ngung đã làm bằng tay thêu dòng chữ "Tặng Bob và Larry nhân ngày lễ
Giáng sinh" mà anh đã chuyển cho họ trong tháng 12/1968. Trung uý này ném chiếc
túi ny lông xuống bàn. Đôi mắt Ngung theo dõi động tác này. Chiếc túi rơi gần
cặp tài liệu dày có tên của Bob Olsen và vợ anh ta, Carol, nổi bật trên lề của
một tờ giấy thò ra khỏi tập hồ sơ dầy.
"Anh đã nói chuyện với những người
Mỹ, chúng tôi biết hết mọi điều! Chúng tôi còn biết rõ những điều anh đã nói!
Anh phải kể lại chính những điều anh đã nói với những người Mỹ. Anh phải nói với
chúng tôi sự thật. Những người Mỹ này đã kể với chúng tôi mọi việc. Tôi ra lệnh
cho anh phải nói sự thật."
Ngung đã không nói gì và được dẫn
trở về phòng giam của mình. Ngung suy luận rằng một hoặc cả hai người Mỹ này đã
nói ra. Trên đường quay trở về phòng giam của mình, anh ta cố nghĩ ra một kế
hoạch hành động. Anh quyết định rằng hành động tốt nhất là thú nhận mình đã nói
chuyện với những người Mỹ này. Anh sẽ tránh đưa ra các chi tiết và khai rằng họ
chỉ nói chuyện về thời tiết và những điều trần tục khác mà những người tù luôn
luôn nói tới.
Sau này người ta yêu cầu anh ta quay
lại Ban quản giáo để viết một bản kiểm điểm nói chi tiết về các cuộc đàm thoại
của anh với Stark và Olsen. Khi anh viết xong, người bảo vệ đưa bản kiểm điểm
này cho trung uý Hoan. Ngày hôm sau Hoan ra lệnh gọi Ngung trở lại. "Thế là đủ.
Anh đã khai ra một ít", rồi Hoan nhắc lại những điều mà Ngung đã trao đổi với
Bob Olsen, như hướng và khoảng cách đến sông Hồng và chi tiết về các nhà hàng ở
thành phố Hà Nội. Sao họ biết được tất cả điều đó? Ngung nhìn người cán bộ.
"Thưa cán bộ, tôi nghĩ rằng người Mỹ này chắc hẳn đã nhầm lẫn. Anh ta chắc đã
nhầm tôi với một cuộc nói chuyện với người bảo vệ". Ngung trình bày có một lần
khi một người bảo vệ nói chuyện với Olsen anh ta đã chỉ cho Olsen xem một tấm
ảnh của vợ và các con anh, và nói với Olsen rằng anh ấy sống ở Hà
Nội.
Người cán bộ này ngây ra nhìn Ngung
trừng trừng. Rồi anh ta đập bàn để làm Ngung chú ý vào thực trạng của vấn đề:
"Đây là chiếc bút chì và vài tờ giấy. Tôi muốn anh ngồi đây và viết mọi điều mà
anh đã giao tiếp với những người Mỹ này. Lần này chúng tôi muốn biết tất cả mọi
điều. Ngung tỏ ra chấp hành theo lệnh, nhưng anh ta cẩn thận lọc bỏ đi hầu hết
các cuộc nói chuyện dài của họ. Vài tuần sau thật là căng thẳng. Trương Tuấn
Hoàng vừa trở lại khu B, cho biết một tin tức đáng quan tâm, ở trại giam hiện
đang có những hoạt động điều tra. Người ta nói rằng họ tập trung vào sự tham ô
và đánh cắp tiền chi cho khẩu phần thức ăn của tù nhân.
Đối với Ngung dường như điều đó đã
được giải thích bằng cuộc viếng thăm đột xuất mới đây của một cán bộ cấp trên,
mà theo lời của một cán bộ ở trại Thanh Trì là "một cán bộ rất có uy tín của Bộ
Công an". Ông là một người có vóc to chắc nịch, trạc tuổi sáu mươi. Các nhân
viên đi theo ông để mở từng cánh cửa và kiểm tra từng phòng giam. Người cán bộ
này ngó vào, dường như việc này đang trông đợi vào ông, và dường như là ông
không muốn làm điều đó. Chuyến viếng thăm này thật quá bất thường. Rõ ràng là có
điều gì đó đang xảy ra.
Vài tuần lễ sau, một người bảo vệ
đến phòng giam của Ngung và nghiêm khắc bảo Ngung đi theo anh ta. Anh ta dẫn
Ngung ra sân ở phía trước khu A. Ngung hy vọng được chuyển lại một trong những
phòng giam của khu A, anh bước qua ngưỡng cửa, nhưng người bảo vệ đẩy anh sang
bên trái vào một trong 2 phòng giam kỷ luật. Ngung bước vào phòng 20 và cánh cửa
đóng sập lại sau lưng anh. Trừ những lần đưa thức ăn vào, cánh cửa luôn bị khoá
liền trong hai tháng.
Trong phòng 19 bên cạnh có 2 tù nhân
rất kín đáo. Họ phá vỡ bầu không khí đơn điệu gần như hoàn toàn im lặng khi họ
được cho ra ngoài để quét sân. Những người tù khác: những người Mỹ, cao và hốc
hác, chân họ gầy như que củi; đi ra ngoài sân từ các phòng giam ở khu A để quét
sân hoặc để tập thể dục.
Vào cuối tháng 10, Ngung được chuyển
sang phòng 13 ở khu A. Cánh cửa phòng bên, phòng 14, được mở rồi đóng lại. Có
người nào đó ở chung với anh ta trong phòng giam bên cạnh. Trong vài ngày anh đã
liên lạc với người láng giềng ở phòng 14, nhưng không bao giờ có một câu trả
lời. Anh rủa anh ta về sự im lặng và hỏi tại sao không thể trả lời. Một hôm anh
nghe thấy người bảo vệ hỏi người tù này về tên, tuổi và quê quán ở đâu. Giọng
nói của anh ta cho thấy rằng anh ta là Đại, Quận trưởng Quận Phú Bài ở Tỉnh
Quảng Trị, miền Nam Việt Nam. Vài ngày sau, Đại được chuyển sang phòng 20 và
Ngung không bao giờ còn gặp lại anh ta nữa.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, người
bảo vệ thường trực đến vào lúc tảng sáng và mở cửa phòng giam của Ngung. "Thu
dọn các đồ đạc của anh rồi đi với tôi", anh ta nói thế.
Ngung đi ra nhanh và thấy 3 thành
viên của toán HADLEY đang đợi anh ta ở khu A. Để lại phía sau một người bạn thân
nhất, Lương Trọng Thường, bị nhốt ở phòng 2 của khu B. Bị khoá tay và đẩy lên
chiếc xe Jip đậu ở phía ngoài cổng trại giam Thanh Trì. Những người tù này nhanh
chóng được chở dọc theo sông Hồng hướng về phía biên giới Trung Quốc.
17. NHỮNG KẺ PHẢN
BỘI Ở PHONG QUANG.
Người giảng viên bước vào lớp học.
Chắc chắn đó là một buổi chiều nữa trôi đi chậm chạp đối với các hạ sỹ quan-sinh
viên của lớp học của trường C500 thuộc Bộ Công An. Lúc ấy là cuối tháng 4. Đêm
trước trời rất lạnh. Trường này là điểm khởi đầu của các sỹ quan An ninh và tình
báo trẻ chuyên nghiệp trong hệ thống An ninh Quốc gia của Bắc Việt. Chiều hôm đó
hàng chục sinh viên được nghe chuyên đề nghiên cứu về xâm nhập và cách nhận ra
chúng. Giảng viên nhìn vào các sinh viên trẻ ngồi trước mặt mình và bắt đầu một
cách chậm rãi:
“Xâm nhập là một loại gián điệp
mà các bạn sẽ phải đối phó”, ông mở đầu dõng dạc: "Tôi sẽ trình bày những
điểm chính của cuộc điều tra liên quan đến một biệt kích đã bị bắt năm 1962 ở
biên giới giáp Trung Quốc, đó là một vụ kinh điển vì nó làm nổi bật những sự
việc điển hình về một điệp viên với những nét đặc trưng, các bạn cần phải nắm
vững nếu các bạn muốn thực hiện tốt các nhiệm vụ của một cán bộ An ninh Quốc gia
chuyên nghiệp".
Lớp học im phăng phắc, mọi con mắt
đều đổ dồn vào giảng viên khi anh ta trình bày về một điệp viên của miền Nam
được đưa ra miền Bắc bằng thuyền như thế nào dưới sự chỉ đạo của cơ quan tình
báo Mỹ và bọn tay sai bù nhìn của chúng. Điệp viên này tên là Hồng, đã đổ bộ an
toàn và về nhà y ở thành phố cảng Hải Phòng trót lọt. Ở đó y liên lạc với người
anh ruột là một trung uý của Bộ Công An. Là một cán bộ An ninh tốt, trung uý đã
báo cáo với cấp trên về sự trở về của người em và thế là một kế hoạch được mở ra
để bắt tên xâm nhập này.
Thầy giáo nói tiếp với giọng đều đều
về các chi tiết của phương pháp được các chiến sĩ An ninh Quốc gia sử dụng để
tiến hành công tác phản gián nhằm bắt và vô hiệu hoá một điệp viên thù địch cùng
tất cả những người mà điệp viên này liên lạc.
Thày giáo tóm tắt: "Vậy nên các bạn
có thể thấy rằng điệp viên này đã bị thất bại vì y không hiểu các tập quán của
địa phương. Nếu y là một điệp viên từng trải, là sỹ quan theo như lời của hắn
thì không đưa ra các loại câu hỏi ngờ nghệch như y đã đặt ra ở biên giới Trung
Quốc. Đó là một vụ kinh điển, cho thấy rõ vì sao các bạn phải nhạy bén với các
loại câu hỏi do người nào đó đặt ra. Các bạn phải nghe xem người ta đang nói gì,
muốn biết gì.”
Trường C500, gần thị xã Hà Tây, ở
phía Tây Hà Nội, ở rất xa huyện Phong Quang, tỉnh Lào Cai, phần cực Bắc của Việt
Nam.
Mùa đông đó đã kéo dài trên biên
giới Trung Quốc. Mùa xuân đến vẫn còn lạnh, đêm trước hầu như lạnh buốt và dường
như mùa đông chưa muốn kết thúc. Trại giam Phong Quang cách thị xã Lào Cai 17km
về phía Đông Nam theo đường chim bay, thấp và biệt lập cách xa mọi trận ném bom
của Mỹ. Nó được phân biệt với các trại giam lao dịch cấp Trung ương khác. Biển
hiệu treo trên lối vào khu A, trại chính kề bên trụ sở của nhà giam, chỉ ghi đơn
giản "Trại Phong Quang". Một ít người đã được nghe về trại giam này vì nó nằm ở
cuối con đường quanh co bụi bặm dài khoảng 10km.
Những bức tường chung quanh trại
giam xây bằng đá và xi măng không thể tạo ra cảm giác ấm cúng-toàn một màu xám
xịt và sự cách ly điển hình của thế giới trại giam. Một đặc điểm nổi bật của sự
cách ly này là một khu vực có xây tường đặc biệt bao quanh 2 nhà giam không có
tên, nằm khuất ở một góc xa của trại giam. Bất cứ ái nhìn thấy cũng không có gì
đáng chú ý, đó chỉ là 2 nhà giam làm bằng gỗ lợp ngói, ở mỗi phía có 5, 6 cánh
cửa chớp luôn khép kín. Nó là khu trại giam đặc biệt. Một người nấu ăn bắt đầu
phao tin rằng có những người Mỹ đang ở đó, vì anh ta đã nghe các tù nhân nói
rằng những người ở trong đó là các biệt kích Mỹ .
Khư vực giam đặc biệt này thỉnh
thoảng đã giam các biệt kích, và những người mới đến trại Phong Quang nhanh
chóng nắm được tôn ti trật tự ở đây. Lượng khẩu phần thức ăn được cấp hàng tháng
phân biệt rõ người này với người kia. Những người ở trong phòng 1 được cấp các
bát thức ăn nhiều hơn những người ở các phòng khác. Lời nói này do những người ở
phòng 1 đưa ra. Họ được cấp với mức 18 đồng một tháng, không phải là 12 đồng như
mọi người khác. Họ là những người đặc biệt, và họ được tin cẩn. Ngoài những khẩu
phần ăn thêm, họ còn được cấp các đồ vật khác. Mỗi người đều có chăn. Họ không
phải ngủ với 2 bộ đồng phục nhà tù chỉ cốt giữ cho khỏi bị chết cóng. Những biệt
kích này vừa được chuyển từ trại giam Thanh Trì lên đã biết ngay trung sỹ Bội là
người khoá cửa các nhà giam, để quản trị viên tên là Thụy có thể chuyển thức ăn
cho những người tù ở phòng 2. Bội là một trung sỹ kỳ cựu hiểu được cách thực
hiện các nhiệm vụ của mình. Sau hết anh được Công an tin cậy, đã thề bảo vệ Đảng
và Nhà nước cũng rất cừ khôi trong việc thực hiện công việc của mình.
Trung sỹ Bội cũng như nhiều người
Việt Nam không tham gia vào một âm mưu nào và anh thường nghĩ ra các biện pháp
để chống lại việc gây bè phái chống lại nhau giữa các cá nhân và các nhóm. Những
người tù tốt nhất cho mục đích này là những người tù hình sự. Họ sẽ làm mọi việc
mà họ được chỉ bảo. Một phần công việc của anh ta là xác định những nỗi lo sợ
lớn nhất của mỗi tù nhân. Họ sợ sệt là cán bộ sẽ khai thác điều gì đó. Mỗi người
đều lo sợ hoặc cố giấu một điều gì đó. Một số tù nhân sợ ốm đau; những người
khác lại sợ cái chết. Cả hai loại người này đều sẵn sàng chấp nhận quá trình cải
huấn. Trung sĩ thực hiện đúng lịch hàng ngày. Anh ta không bao giờ thay đổi ngay
cả vài phút khi anh ta đi qua dốc để chuyển thức ăn. Điều đó thể hiện một phần
của sự thấm nhuần, thể hiện trong công việc hàng ngày mà mọi người có thể làm
theo để đảm bảo rằng những người tù này có phản ứng rất nhạy trước những sự việc
đơn giản như tiếng động khi mở khoá. Việc này giống hệt như cách huấn luyện độ
thính, nhạy cho một con chó.
Thụy thật có ích như một phương tiện
để kiểm tra những người khác. Ở độ tuổi 29, và nguyên là hạ sỹ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, anh ta đã được chọn làm một quản trị viên sau án tù 3 năm vì
tội móc túi. Thuỵ sẽ được thả ra trong vài năm nữa, nhưng anh thấy cần tỏ cho
cán bộ biết rằng anh ta đang muốn góp phần của mình để phục vụ đất nước bằng
việc giúp kiểm tra các biệt kích gián điệp Mỹ ở đây.
Thụy cẩn thận mở cửa, bước vào trong
và đặt xuống một nồi cơm ngô còn nóng xuống ổ rơm có vài biệt kích đang nằm yên
lặng. Người tù ở gần cửa nhất nhúc nhích và nhìn anh ta khi Thuỵ từ từ nhìn
quanh căn phòng trước khi rời đi. Những người tù khác từ từ ngồi dậy, hy vọng
nhận được bữa cơm khác có cơm ngô nguội, không có rau. Đến nay, điều này đã tiếp
tục xảy ra hơn một tuần. Một số người nói rằng người cán bộ nhà giam này đang
thực hiện mục đích riêng của mình, họ đã thay đổi thức ăn để làm giảm sức khoẻ
và tinh thần của các biệt kích. Một số người khác nói rằng những người bảo vệ đã
phải giải quyết với các tội phạm nấu ăn; những người nấu ăn này có thể ăn mọi
thứ họ muốn, chỉ cần họ cung cấp một phần lớn gạo của những tù nhân cho những
người bảo vệ. Một tù nhân khác nói rằng những người bảo vệ chỉ cần ăn cắp gạo
rồi bán đi một phần, phần còn lại họ mang về cho gia đình. Một người bảo vệ nghe
thấy nói rằng những tù nhân này cảm thấy thoả mãn khi họ có thể đứng ngoài cuộc
chiến tranh Giải phóng trong một trại giam thật dễ chịu, không còn sợ bị giết
nữa Những người tù cho rằng họ cần nhiều thức ăn hơn là lượng thức ăn họ đang
được cung cấp. Làm sao những người tù lại có thể sống và lao động cực nhọc khi
chỉ được ăn có 3 lạng gạo một ngày.
Trung sỹ Bội tiến lại bên ngoài các
nhà giam. Anh kéo chốt sắt gài cửa và khoá lại. Những người trong phòng 2 tiến
dần đến chỗ ngồi và chờ đợi, họ chuyển nồi cơm và những chiếc bát từ người này
đến người kia. Mỗi người múc một thìa cơm rồi chuyển cho người bên cạnh; những
người ở tầng dưới chuyển tiếp chiếc nồi cho những người ở tầng trên cứ như vậy
chiếc nồi đi quanh phòng cho đến lúc hết nhẵn, chỉ có một âm thanh duy nhất là
tiếng nhai nhóp nhép, vì những người tù này cố thu nhận một lượng dinh dưỡng nho
nhỏ được tiết ra từ bữa ăn.
Vào khoảng 11 giờ, Trung sỹ Thông và
Thúy đi thu nồi và bát. Vài tù nhân gây náo động. Một người đứng dậy và đi đến
chỗ đặt ống nứa dùng để đi đái. Mùi hôi thối của nước giải cũng không đến nỗi
tồi như mùi của chiếc hộp gỗ nhỏ dùng để đi đại tiện. Mùi hôi thối này không còn
là vấn đề nữa đó chỉ là một bộ phận khác của đời sống trong trại
giam.
Cánh cửa mở ra. Một người mới đến,
một tù nhân ở buồng 1 từ từ đi vào. Điều rõ ràng mà “tên con hoang" này muốn là
dò la tin tức để làm vui lòng Bội. Bội chịu trách nhiệm về toàn bộ công việc lao
động của tù nhân, và có người đồn rằng anh ta và Thông đã được lệnh của trung uý
Trúc bắt các lính biệt kích phải làm việc nặng nhọc hơn.
Trúc là sỹ quan chịu trách nhiệm chỉ
huy nhà giam biệt kích. Điều quan tâm chủ yếu của anh là lập lý lịch cá nhân của
mỗi tù nhân sau khi nhận được các báo cáo hàng ngày của 2 trung sỹ. Trúc quyết
định ai sẽ được lọc ra để đối xử đặc biệt. Trúc cố tìm ra ai là người tiến bộ.
Điều này phải cân nhắc kỹ lưỡng.
Có lời đồn rằng các tù nhân ở phòng
1 là những kẻ phản bội. Giả sử họ là những điệp báo viên của các nhóm đầu tiên
đã đánh điện cho các lực lượng An ninh Cộng sản và chuyển cho chỉ huy biệt kích
ở miền Nam rằng mọi điều đều tốt đẹp rằng toán của họ đã tuyển thêm nhân viên,
đào tạo người mới... có điều gì đó rất lạ. Các toán này đã nói gì với Sài Gòn?
Thật là khó mà tin được rằng một sự lừa bịp như thế lại có thể trót lọt trong
nhiều năm như vậy. Lẽ ra phải đánh giá cẩn thận từng trường hợp ở Sài Gòn. Nhờ
vào đâu mà Bắc Việt lại tiến hành công việc được lâu như vậy. Nếu người nào đó
nghĩ về điều này quá lâu thì có thể làm cho người ta hoá điên lên
được.
Dẫu sao những biệt kích này có thể
suy ra là: Sài Gòn lẽ ra phải biết rằng tất cả bọn họ đã bị bắt. Sài Gòn sẽ
không nên bỏ rơi họ. Nếu họ chết, có nghĩa là cộng sản đã thắng, và không một ai
muốn nghĩ như vậy. Họ vẫn thường nghĩ rằng nếu họ thoát được và còn sống thì họ
sẽ là những người chiến thắng thật sự, chứ không phải những người bắt
họ.
Người tù ở phòng 1 tạm nghỉ, có lẽ
để cảm nhận các ý nghĩ của họ, anh ta bước chậm đến giữa phòng cẩn thận nhặt mẩu
giấy của ai đó. Anh ta ngồi xuống đầu thấp của tấm phản gỗ dài và nhìn chằm chằm
ra cửa.
Người biệt kích cũ này dường như
thích một người trong số họ. Anh ta mặc bộ quần áo tù có sọc đã quá cũ, và cũng
gầy nhom như họ. Anh ta cao khoảng lm8. Có lẽ anh ta không đến nỗi còm như vậy,
mà do anh ta cao nên nhìn có vẻ thế. Một người dân tộc Thái Trắng ở Lai Châu,
hơn người ở phòng 2 khoảng 10 tuổi. Có người nói rằng anh ta là điệp báo viên
được hai năm đã làm việc ngay từ khi các toán đầu tiên được tung ra miền Bắc.
Anh ở đâu? Anh làm việc với toán
nào? Anh đã ở đây bao lâu? các câu hỏi này được 5, 6 người hỏi nhanh, nhè nhẹ
trong lúc họ đang run sợ bởi trời nóng tới 40 độ C.
Một số đã nhận thức được mình là ai
và đại diện cho cái gì. Tuy nhiên những người mới đến vẫn bị sững sờ khi họ biết
là đã có những kẻ phản bội ngay từ lần đầu tiên. Một số người không quan tâm gì.
Có lẽ họ bị ép buộc phải dùng điện đài của mình. Hơn nữa ai biết được sự thật?
Chỉ vì họ nhận được các khẩu phần ăn khá hơn, chỉ vì họ được chọn ra để đối xử
đặc biệt, điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Ôi phải chăng vì cuộc sống? Đó là điểm
yếu làm cho Công an túm được gáy. Những tù nhân này tin tưởng rằng một ngày nào
đó toàn bộ hệ thống Cộng sản sẽ sụp đổ và quân đội Cộng hoà Việt Nam sẽ đè bẹp
những tên con hoang này. Cho đến lúc đó, sự sống sót có ý nghĩa làm cho cuộc
sống dễ chịu và chung sống với nhau, đó là cách duy nhất để đố phó với "những kẻ
mặc áo ka ki" (tiếng lóng chỉ những người công an). Có thể những tin đồn là
thực, và chỉ vì những kẻ phản bội này mà nhiều biệt kích đã bị giết. Nếu những
tin đồn đó là đúng thì sao họ lại làm thế?
Những suy nghĩ ấy cứ lặng lẽ xuất
hiện trong mỗi người. Nếu nói công khai thì rất nguy hiểm vì không biết ai là
người có thể tin tưởng được. Lúc ấy họ cứ để cho điệp báo viên phản bội nói. Đó
là lúc cần lắng nghe xem liệu anh ta có còn chút sự thật nào trong những lời đồn
đại về những người ở buồng giam số 1 không.
Người tù ở phòng 1 chỉ ngồi đó, nghe
các câu hỏi, chú ý xem ai nói gì. Một người có thể trả lời rất nhiều cho một câu
hỏi của người nào đó. Họ muốn bày tỏ những gì họ nghĩ, những gì họ quan tâm. Đó
là điều trung sỹ Thông muốn biết xem những người tù biệt kích đang nghĩ gì. Từ
đó Thông có thể điều chỉnh kế hoạch giảng dạy của mình. Anh và Bồi sẽ xáo trộn
việc phân công lao động thay đổi một chút về mức độ quản lý tăng mức sợ hãi, và
dần dần làm cho mọi người cộng tác với họ. Đó là điều Thông suy nghĩ khi anh
nhấn mạnh phương pháp cơ bản là: "Tư tưởng sẽ dẫn đến hành động". Thông biết
rằng bằng cách chuyển hoá tư tưởng những người này sẽ thực hiện bất cứ điều gì
cần thiết cho Nhà nước một cách vô ý thức. Những đáp ứng trở nên tự giác. Nhưng
trước tiên anh cần biết những tù nhân này đang nghĩ gì?
Người tù lắng nghe không cho Minh là
người cung cấp tin tức bí mật, còn tù nhân khác mong được sống sót. Có hại gì
đâu đối với một chút ít tin tức? Hơn nữa mọi người khác ở phòng 1 cũng đang làm
điều ấy. Điểu đó có hại cho ai? Khán giả của anh trả lời các câu hỏi chậm rãi,
lặng lẽ với một vẻ thờ ơ.
Phải, anh ta ở ban chỉ huy kỹ thuật.
Anh ta đã được đào tạo từ nhiều năm trước ở trung tâm đào tạo không lực miền Nam
ở khu Hoàng Hoa Thám. Phải, anh ta đã nhảy dù xuống phía Tây của miền Bắc Việt
Nam, vào khu vực gần Điện Biên Phủ. Anh ta là điệp viên của toán. Anh này đã
cùng đến trại giam Phong Quang cùng với các người khác cách đây không lâu. Họ đã
bị giam ở đâu? Rất nhiều nơi. Thật khó mà nhớ được. Bây giờ anh ta được chuyển
đến phòng 1. Có bao nhiêu nhân viên điện đài cùng bị giam với anh ta?
Khi những người khác chú ý lắng nghe
họ thấy rằng anh ta chẳng nói gì cả. Họ nghe những gì anh ta nói, không bình
luận, nhưng họ đếm trong đầu những người ở phòng 1, ở đó có nhiều người hơn là
người tù đã chỉ ra. Thí dụ có một chỉ huy toán đã được thu dụng. Tên con hoang
đó được coi là kẻ xấu nhất. Hắn ta chính là anh chàng đã khoe khoang rằng cán bộ
cộng sản đã cởi mở đưa anh ta đến các nhà hàng và các tiệm cà phê trong thành
phố Hà Nội và chỉ cho anh ta những điều tuyệt vời. Bao nhiêu người đã chết bởi
hắn ta? Quân khốn kiếp, bây giờ thì không còn là vấn đề nữa. Tất cả bọn chúng
bây giờ đều có chung một tình thế. Một người tù nói: "Anh biết đấy chúng tôi gửi
về một đoạn tin nói rằng chúng tôi đã họp thành một nhóm lớn và chúng tôi cần
nhiều thiết bị hơn. Chúng tôi đã chuyển về nhiều bức điện báo cho Sài Gòn rằng
chúng tôi đã lập một cơ sở đào tạo lớn ở trong rừng. Sau đó chúng tôi yêu cầu
cung cấp quần áo đồng phục. Họ đã cấp quần áo đồng phục! Thật khó mà tin được".
Anh ta dừng lại nhìn vào 6 người tù đang chăm chú nghe anh ta nói. Anh ta tiếp
tục:"Thật là hão huyền! Quần áo đồng phục! Các anh có thể tin điều đó không? Họ
cần gì những quần áo đồng phục đó?".
"Anh bị bắt thế nào?", một giọng hỏi
nhỏ từ phía góc xa của tấm phản thấp.
"Một số việc đúng như vậy”, anh ta
nói, “cuối cùng chúng tôi yêu cầu giúp đỡ để rút ra, và yêu cầu Sài Gòn cấp cho
một máy bay để đưa chúng tôi ra ngoài. Sài Gòn đã đánh điện báo toạ độ mà chúng
tôi phải chuyển đến một địa điểm an toàn và chờ máy bay lên thắng sẽ được phái
đến để chở chúng tôi đi. Chúng tôi đã chuyển đến địa điểm mới nhưng không có gì
xảy ra, không có máy bay lên thẳng. Vì thế chúng tôi lại đánh một bức điện yêu
cầu cho chỉ thị. Báo cho Sài Gòn biết chúng tôi đang ở địa điểm mà chúng tôi đã
chuyển đến theo lệnh. Sài Gòn trả lời rằng địa điểm của chúng tôi không an toàn
phải chuyển đến một địa điểm thứ ba. Vì thế chúng tôi lại phải chuyển đến địa
điểm mới. Chưa ai từng biết đến. Sau đó chúng tôi đã mất liên lạc với Sài Gòn và
bị bắt.
Lẽ dĩ nhiên không ai tin anh ta. Mấy
người nằm im lặng lắng nghe anh ta nói thao thao. Bây giờ mọi người tự hỏi có
điều gì khác lạ đã xảy ra. Thật khốn nạn? Mọi việc họ tiến hành trong nhiều năm
đã thực sự do Cộng sản điều khiển.
Đó là hầu hết những điều tồi tệ mà
đại uý Dũng đã kể cho họ nghe trong việc cải huấn của họ. Nếu có ai hỏi họ đang
làm gì, anh ta nói rằng họ phải trả lời: "Tôi đi tìm ông Hương". Cuối cùng họ
được đưa về Phong Quang cùng với nhau, họ thấy rằng đại uý Dũng đã nói với nhiều
toán: ROMEO, HECTOR, HADIEY..; để nói lên cùng một điều. Tất cả bọn họ cùng được
bảo điều này. Đại uý Dũng đã nghĩ về điều gì? Vào lúc đó không ai trong số họ
nghĩ được điều nào. Cuối cùng đại uý Dũng là sỹ quan đào tạo và dã chiến của họ,
người được coi là hiểu biết và lời nói, việc làm đều đúng. Thực vậy, anh ta đã
từng phái hết toán này đến toán khác bằng cách đưa cho họ một khẩu lệnh giúp cho
người Bắc Việt thường nhận dạng ra họ là các biệt kích ở Long Thành.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi
những người hỏi cung đã cười phá lên khi các biệt kích này trả lởi câu đó trong
lần thẩm vấn đầu tiên. Câu hỏi tiếp sau luôn luôn là: "ông Hương ở cách đây bao
xa?". Họ đều trả lời rằng ông ta chỉ cách đấy một hoặc hai kilomet. Và ông Hương
làm gì? Ông ta là một tiều phu và ông ta sẽ nói cho họ biết những điều phải
làm.
Ngu xuẩn!
Người tù ở phòng một này thật không
còn cách gì để biết những người biệt kích đang nghĩ gì nhưng anh ta tiếp tục nói
chậm rãi, đôi mắt anh tình cờ nhìn vào từng người một cách thờ ơ. Không ai lắng
nghe anh. Mọi người đã quay lưng lại phía anh. Anh ta tiếp tục nói không nhận
thấy rằng họ đang phớt lờ anh. Anh ta nói "OK chào các anh". Anh ta đứng dậy và
từ từ đi ra cửa để hít thở không khí ấm áp của mùa xuân. Bây giờ anh ta sẽ cho
Thông biết tên những người đã nghe, những người đặt câu hỏi, những người dường
như tỏ ra tức giận và những người đã không trách mắng anh, điều đó có hại gì?
Anh ta chuyển lại cho trung sỹ Bội, đến lượt bảo mọi người đi ra ngoài doanh
trại của họ để bắt đầu đan rổ. Cánh cửa của phòng 2 bỗng nhiên mở tung, và Bội
bước nhanh vào trước sự im lặng đó. "Mọi việc đều ổn cả. Nhà nước đã đối xử tốt
với các anh. Không ai trong các anh bị chết. Giờ là lúc đền đáp lòng tốt của Nhà
nước. Hãy tiếp tục đi, các anh, tất cả những người biệt kích gián điệp bù nhìn
lười biếng?".
Anh ta đi chậm dọc theo các doanh
trại và đá vào các tấm phản gỗ có những con người đang run rẩy. Anh ta dừng lại
ở cuối phòng và quay lại để nhìn các biệt kích tự xô đẩy nhau ra đầu các tấm
phản và duỗi chân ra. Sau đó anh ta bước chậm về phía cửa và đứng đó với nụ cười
trên môi. Người tù ở phòng 1 đã làm tốt công việc của mình. Thông đã nói đi nói
lại về yêu cầu có thêm thông tin. Bội biết rằng anh ta làm việc này chỉ cốt làm
vui lòng trung uý Trúc, còn trong lòng anh ta thì tức giận. Thông là trung sỹ
phụ trách việc giáo dục, không phải là người phụ trách lao động. Việc gì anh ta
phải chõ mũi vào lĩnh vực trách nhiệm của Bội? Hơn nữa, kế hoạch triển khai lao
động đã được thực hiện đúng, và sản lượng đã tăng lên. Lao động được sử dụng làm
phương tiện để gây sức ép với những tù nhân, một phương pháp làm cho họ bận rộn.
Việc này sẽ làm giảm khả năng chạy trốn bằng cách làm cho họ bị hao mòn thể lực
gần đến mức suy sụp. Người cán bộ này để ý rằng những người tù đang bắt đầu lao
động tốt và đáp ứng yêu cầu cải tạo tư tưởng. Đó là một loại sách giáo khoa cổ
điển về việc cải huấn được áp dụng vào môi trường đã được khống chế.
Để làm cho họ yếu đi hơn nữa, Trúc
bảo những người nấu ăn giảm các khẩu phần của những người tù. Dùng những thứ
khác thay thế cho gạo, giữ lại một ít thức ăn của mỗi tù nhân, giảm số lượng
rau. Điều đó sẽ làm cho họ đói, giảm khả năng chạy trốn của mỗi người và làm cho
các tù nhân dễ bảo hơn. Đó là tất cả những điều làm theo sách vở. Và không có
tỏi. Ai cũng biết rằng các tù nhân đều gom tỏi để rải dọc theo đường chạy trốn,
một cách đảm bảo để chó không đánh hơi được họ.
Một người khác đã làm cho Bội phải
quan tâm, đó là một người chỉ huy toán bị bắt trong tháng 1 năm 1967. Theo hồ sơ
của ban giáo dục trại giam, bản lý lịch của anh ta cho thấy rằng việc cải tạo
của Ngung không được tiến hành một cách đơn giản. Mọi chỉ huy của toán đều là
những trường hợp có khó khăn. Những người ở đó có xu hướng theo gương họ và đến
với họ để được khuyên giải. Một chỉ huy toán mạnh là người mà các tù nhân khác
thường tập hợp quanh anh ta chẳng hạn như Nguyễn Hữu Luyện, người bị bắt năm
1966. Đó là lúc bắt đầu dùng nhiều cùm hơn, dùng kỷ luật khiển trách ít hơn,
tách họ ra khỏi những người chỉ huy của họ và tăng sự nghi ngờ giữa họ với
nhau.
18. CẢI
HUẤN.
Sau vài ngày đến Phong Quang, những
người lính biệt kích mới chuyển đến nhận được bộ quần áo đồng phục mới của nhà
tù, màu xám, không có sọc. Nhiều tù nhân chính trị và hình sự cũ cũng mặc đồng
phục xám không có sọc thay cho quần áo tù có sọc đang được loại dần, kẻ màu đỏ
và trắng cho tù chính trị và các gián điệp biệt kích, kẻ màu xanh và trắng cho
các tù thường phạm.
Trung sỹ Bội đi vào các trại cùng
với một người tù chính trị. Khi anh ta đọc lên các số chỉ định cho người tù nào,
thì người tù khác đóng dấu số của tù nhân mới đến lên mỗi bộ đồng phục nhà tù.
Chữ BP đứng đầu là ký hiệu trại Phong Quang, và ba chữ số là dãy số dựa theo thứ
tự tống giam của mỗi người. Con số cuối cùng sẽ là số lẻ cho tù chính trị và số
chẵn cho các tù thường phạm.
Việc đóng dấu các con số trở thành
một trò lố bịch vì sau vài lần giặt là chúng biến sạch. Tuy vậy cán bộ trại giam
đã phê bình các tù nhân có số nhìn không rõ, nhưng không có cách gì để giải
quyết vấn đề này.
Cán bộ trại giam chịu trách nhiệm
đối với các kế hoạch phân công lao động hướng dẫn các tù nhân mới bắt đầu sản
xuất các giỏ tre. Họ không có các chỉ tiêu sản xuất, thời gian làm việc của họ
không được điều chỉnh. Cán bộ theo dõi sát mọi tù nhân và đánh giá phản ứng của
họ với môi trường và các công việc của họ hàng ngày.
Các giờ học buổi chiều và truyền bá
chính trị vào buổi tối thường kèm việc tự kiểm điểm hàng ngày và phê bình các
bạn tù về ý thức chấp hành của họ. Trong giai đoạn đánh giá ban đầu người cán bộ
đánh giá thái độ của từng tù nhân, điều kiện thể chất và sự tự nguyện làm theo
hướng dẫn.
Sau đó giờ lao động ngày càng tăng,
và chỉ tiêu sản xuất được nâng lên dần cho đến khi các tù nhân chỉ còn thời gian
để làm việc, ngủ và học tập chính trị. Trong việc cải huấn cần tổ chức lao động
sản xuất. Trước tiên, cán bộ chỉ định một tù nhân làm người lãnh đạo buồng giam.
Nhiệm vụ của anh ta là đếm đầu người vào buổi sáng và buổi tối khi những người
bảo vệ kiểm tra các tù nhân trong buồng. Sau đó, các tù nhân được tổ chức thành
các nhóm lao động và người ta chỉ định người lãnh đạo nhóm.
Trại giam Phong Quang giới thiệu cho
những người mới đến về hệ thống trợ cấp chăm sóc hàng tháng cho mỗi bệnh nhân
trong trại giam trung ương và trại giam lao dịch do Bộ Công an quản lý. Mỗi tù
nhân được cấp 15 đồng mỗi tháng để ăn uống và các sinh hoạt khác. Đó là sự thay
đổi được hoan nghênh-từ phụ cấp 12 đồng ở trại Thanh Trì, trại giam cấp tỉnh
được áp dụng mức thấp hơn mức ở các trại Trung ương.(**)
Gạo và các nhu yếu phẩm khác hoặc là
do các tù nhân trồng hoặc được Chính phủ cung cấp theo giá của Nhà nước. Gạo mua
ở các cửa hàng của Nhà nước với giá 30 xu (0,3 đồng) 1 kg, có nghĩa là Nhà nước
chi 4,5 đồng về tiền gạo cho mỗi tù nhân trong 1 tháng. Số tiền 10,5 đồng còn
lại trong mười lăm đồng tiền trợ cấp hàng tháng được dùng để mua các thực phẩm
khác, như rau, thịt, cá, và các thứ lặt vặt bao gồm 2 bộ đồng phục của trại
giam, dép, đũa, bát, thuốc đánh răng, dầu để thắp đèn và thuốc.
Không bao giờ tiền trợ cấp hàng
tháng cho mỗi tù nhân vượt quá 15 đồng. Bộ ban hành các mức trợ cấp cho tù nhân
và giao cho mỗi chỉ huy trại giam quản lý tiền. Mức phụ cấp cho mỗi tù nhân
không bao giờ thay đổi dù rằng lao động của trại giam có sản xuất được một số
sản phẩm chính hay không. Những tù nhân ở trại giam Phong Quang tin rằng cán bộ
này tham ô tiền trợ cấp. Họ thường khiếu nại rằng trại giam đã mua một số thứ ở
địa phương, trong khi những thứ đó vẫn được trại viên trồng, nhưng thực chất
không được hưởng chút gì.
Việc phân phối thực phẩm là vũ khí
đầu tiên được dùng để vận động tù nhân. Những ai chịu hợp tác và làm việc cần cù
sẽ nhận được nhiều thực phẩm hơn, bình thường là một bát to hơn, tính tương
đương với mức ăn hàng tháng vào khoảng 18 đồng. Làm việc cần cù có nghĩa là làm
những công việc theo lệnh của cán bộ, bất kể các lệnh đó liên quan đến lao động
sản xuất hoặc cung cấp tin tức. Để đảm bảo mức trung bình là 15 đồng cho mỗi tù
nhân trong 1 tháng thì khẩu phần ăn của những người hợp tác kém sẽ bị giảm đi.
Những tù nhân không tuân theo các mục tiêu cải huấn thường chỉ nhận được các
suất ăn tương đương với 12 đồng 1 tháng. Cơm bữa của họ thường được thay bằng
khoai tây hoặc khoai lang.
Phong Quang cũng có nghĩa là tự cải
huấn thông qua nỗi đau của cùm kẹp theo lệnh của đại uý Trình Văn Thích chỉ huy
trại. Sự đối xử này đã bắt đầu không kèn không trống từ đầu năm 1970 trong dịp
Tết Nguyên đán, là thời gian mà Việt Nam tiễn năm cũ và chuẩn bị cho năm mới, là
thời gian xoá bỏ mọi cái cũ và khởi đầu những cái mới. Tuy nhiên cán bộ của trại
giam Phong Quang đã được người ta chứng minh rằng nỗi đau của cải huấn thì không
như vậy, nó được mang từ năm này sang năm sau.
Người thư ký của Bộ trưởng Quốc
phòng Mc Namara cẩn thận điều chỉnh micro. Phái đoàn báo chí biết rằng đã xảy ra
điều gì đó liên quan đến Việt Nam. Bây giờ mọi người đã biết đến cái tên Sơn
Tây. Viên thư ký này đã mô tả sự nỗ lực vào ngày 18 tháng 11 năm 1970 để cứu các
tù binh Mỹ ở một trại giam nhỏ tại vùng quê phía tây Hà Nội. Đó là một nỗ lực
đầy mạo hiểm, nhưng ở đó không có tù binh. Rõ ràng là họ đã chuyển đi trong
tháng 6 vì lũ dâng lên đe doạ trại giam. Viên thư ký này lấy làm thỏa mãn rằng
cuộc tập kích đường không bí mật đó được tướng Donald Blackburn hoạch định đã
dược giữ kín.
Việc di chuyển những tù nhân chỉ là
sự trùng hợp.
Các biệt kích ở trại Phong Quang
không bao giờ được nghe về cuộc tập kích Sơn Tây trong lúc họ ở đấy. Các buổi
phát thanh buổi tối của Đài phát thanh Quân đội nhân dân qua loa phóng thanh đã
được biên soạn cẩn thận để loại các báo cáo này ra ngoài. Những người biệt kích
có thể có các cảm giác lờ mờ. Họ đã không bao giờ biết cho đến mãi sau này khi
thấy rằng cuộc tập kích Sơn Tây là lý do của việc xây dựng vội vàng ở bên ngoài
khu A. Sợ rằng công trường có các cọc đặt rải rác trên các khu vực trống trải
của khu trại giam bị máy bay trực thăng tấn công. Các đầu cọc được làm nhọn và
sơn đen, mỗi cọc có đường kính hơn 30cm và cao hơn 9m.
Vào khoảng thời gian Tết năm 1970,
ba người tù thuộc dân tộc Hoa đến Phong Quang, cùng với toán bị bắt ở biên giới
Lào năm 1967 và hai người Mỹ. Những tù nhân khác đã thấy người Hoa này đến trại
Thanh Trì năm 1968, nhưng không ai trong các tù nhân đã có thể nói chuyện với
họ. Ở Phong Quang, câu chuyện lạ về sự tống giam của họ đã được sáng
tỏ.
Người ta nhận ra họ là Triệu Chí
Kiên, Lương Minh Phát và Lý Mậu An. Họ đã bị bắt ở Phú Bài gần thành phố Huế
trong cuộc tổng tấn công tết 1968. Các lực lượng Việt Cộng bắt được 3 người này
khi họ đang đi xe vétpa. họ bị tình nghi là các gián điệp của CIA. Họ khăng
khăng nhận là các thợ may tư nhân may và bán các bộ đồng phục cho quân nhân Mỹ.
Họ chống lại việc bắt bớ này nhưng vô ích. Triệu Chí Kiên đã có vợ con sống ở
khu Kowbon của Hồng Lông. Lương Minh Phát nói với những tù nhân khác rằng anh ta
là người Hoa, nhưng là công dân Indonesia. Bộ ba này vẫn còn bị giam, năm 1982,
họ ở trại K1 nhà giam Thanh Phong. Họ thường kêu gọi các biệt kích viết thư cho
gia đình họ để báo cho biết rằng họ vẫn còn sống. Kiên viết hết thư này đến thư
khác cho vợ anh và gửi những thư đó cho các biệt kích khác với hy vọng rằng họ
có thể được tha. Năm 1986 một lính biệt kích đã bay sang Hồng Kông và nhắn tin
cho vợ của Kiên. Chị ta chạy tới trại tị nạn mà người biệt kích này đang bị giữ
và cầu khẩn các cán bộ của Trại cho chị ta nói chuyện với người đàn ông đó. Các
cán bộ này đã từ chối và chị ta đã bị cưỡng bức rời khỏi đó với nước mắt giàn
dụa trên mặt.
Các lính biệt kích ở Phong Quang và
những người tù khác đã sống sót qua cảnh tù đầy và nhận được giấy phóng thích.
Dĩ nhiên là khi bị giam giữ ở dọc biên giới Trung Quốc thì họ không thể trốn
thoát. Họ không thấy những biệt kích mới được đưa vào hệ thống trại giam này.
Qua những lần tranh thủ nghe đài phát thanh, họ mới biết rằng cuộc chiến tranh
đã kết thúc. Nhưng họ vẫn còn phải tiếp tục giữ vững tinh thần và niềm tin rằng
họ sẽ không bao giờ bị những người đã phái họ ra miền Bắc lãng quên. Đạo quân
nhỏ bé có 51 biệt kích bị tù ở những trại giam nằm rải rác trong tỉnh Hà Giang ở
phía cực Bắc của tỉnh này cũng có chung niềm hy vọng đó. Đây là địa điểm của các
tù nhân ở Yên Thọ và Yên Hoà gần Phú Thọ đã sơ tán đến trong thời gian chiến
tranh 1965.
Vào năm 1970, Mỹ đang chuyển sang
chiến lược Việt Nam hoá. Lúc đó tướng Westmoreland là tư lệnh quân đội Mỹ ở Lầu
Năm góc, và tướng W.Abrams là tư lệnh của Bộ Tư lệnh hỗ trợ quân sự ở Việt Nam.
Khi các lính biệt ở Phong Quang đang trải qua nỗi khủng khiếp của gông cùm, thì
các lực lượng của Mỹ ở miền Nam đang rút đi. Những người lính biệt kích này
không thể nào biết được rằng họ đã bị xoá tên vì bị coi là đã chết. Trong mùa
xuân năm 1972, đội quân tuyệt mật MACSOG đã đạt đến mười nghìn người trong năm
1971 đang bị giải thể, họ chỉ được thanh toán lần cuối cùng bằng một túi gạo và
một chuyến xe đưa về tận nhà. Phần chi phí của các cuộc hành quân của MACSOG, đã
được vào sổ ở Washington với một khoản tiền khiêm tốn là 25 tỷ đô la trong 2
năm, trước khi những cuộc hành quân của nó kết thúc (xem phụ lục 8 và 9). Cuộc
sống của những người bị giết và mất tích, cả người Việt Nam và người Mỹ, không
bao giờ được đưa vào các dự toán tài chính.
Thành viên của toán bị phái ra miền
Bắc trước năm 1968 có thể được coi là các cuộc hành quân của toán biệt kích hoạt
động tầm xa độc đáo đã chấm dứt vào cuối năm 1967. Mặc dù các toán STRATA vẫn
tiếp tục được đưa vào Lào và vùng cán xoong Bắc Việt Nam. Bây giờ họ gặp những
nhóm tù nhân mới là thành viên của các toán trinh sát biên giới và những tên đảo
ngũ của quân đội miền Bắc được MACSOG thu dụng để duy trì các cuộc hành quân
nghi binh của các kế hoạch như Borden và Earth Angel.
Ngày 26/12 năm 1971, 23 lính biệt
kích cuối cùng ở khu trại giam biệt lập và 34 biệt kích ở phòng 3 của trại giam
Phong Quang được đưa lên xe tải hạng nặng để đưa lên trại giam mới ở phía tây
bắc, trại giam trung tâm số 1 bên ngoài thị xã Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai. Nơi
đó sẽ là nhà của họ trong một năm rưỡi nữa tại một địa điểm gọi là Phố
Lu.
---------------------------------------------------
(**) Các số liệu này không đúng với
thực tế - BTV.
19. CHUẨN BỊ TRAO
TRẢ.
Vào cuối năm 1971, hầu như tất cả
lính biệt kích được tập trung tại nhà giam cấp Trung ương: Trại giam trung ương
số 1, nằm ngoài thị xã Lào Cai gần biên giới Trung Quốc; nhà giam Tâu Lập gần
Phú Thọ ở đồng bằng sông Hồng, phía tây nam Hà Nội và trại giam Hoành Bồ, ở vùng
đồi núi Đông Bắc thị xã Hòn Gai. Các biệt kích chủ bài được phân tán ra nhiều
trại giam khác. Việc chọn lọc các tù nhân để chuyển đến mỗi trại giam trong năm
1971 rõ ràng là đã được hoạch định chu đáo.
Trong những tù nhân đầu tiên rời
khỏi Phong Quang vào mùa hè đó, các điện báo viên được thu dụng đã được chuyển
đến Tân Lập và Hoành Bồ. Tân Lập cũng giam nhiều thành viên của các toán biên
giới.
Đợt cuối cùng rời khỏi Phong Quang
là 47 biệt kích được mệnh danh là “những người không thể cải huấn". Họ đến trại
giam Phố Lu, là tên quen dùng thay cho Trại giam Trung ương số 1. Đến Phố Lu, họ
thấy các buồng của họ ở trại KI trống vắng, trừ 6 người tù đã hoàn thành việc
xây dựng các nhà giam thứ ba. Ở đây họ gặp Lâu Chí Chăn, một người nhái của toán
CANCER mà lần đầu họ thấy ở Thanh Trì. Hiện nay Chăn là người tù làm thợ mộc.
Đầu năm 1972, một đạo quân biệt kích khác từ Quyết Tiến đến Phố Lu. Như vậy tổng
số biệt kích lên đến 167 người. Hai nhóm biệt kích được giam trong các buồng
giam riêng biệt nhưng cùng một trại giam rào kín. Nó bị phân cách bởi một bức
tường, và nói chung được cách ly với nhau. Một người tù chính trị "kỳ cựu” da
nhăn nheo đã ở Quyết Tiến hơn 10 năm nói: "Bạn sẽ không bao giờ đoán được điều
gì đã xảy ra sau khi bạn rời đi".
"Tiểu đội công an đã ra lệnh cho
chúng ta đi đào các hài cốt! Các bạn có thể tin được điều này không? Họ đưa
chúng tôi ra đào các ngôi mộ".
"Đào các ngôi mộ à? Để làm gì?", một
người biệt kích đặt ra câu hỏi hơi tò mò.
"Phải, họ đưa cho chúng tôi một con
trâu và cái cày rồi bảo chúng tôi đi đào hài cốt. Họ phái chúng tôi ra ngoài để
làm việc trong các nghĩa địa cũ ở ngoài các ngọn đồi. Các anh có tin được không?
Họ bảo chúng tôi rằng công việc này rất dễ xúc cảm, ý tôi nói là việc đào mộ. Họ
chỉ cho chúng tôi ra ngoài khi các tù thường phạm đi làm ở vườn rau trở về.
Chúng tôi được phái ra vào giữa trưa để cày lật các ngôi mộ lên, và chúng tôi
phải quay trở về trước khi các tù thường phạm ra làm việc vào buổi
chiều.”
"Vì sao họ lại muốn cày lật các ngôi
mộ lên?"
"Ai mà biết được. Chúng tôi đã làm
việc ở các nghĩa địa cũ đó hết cả tuần, tìm các ngôi mộ, nhưng chẳng thấy gì cả.
Họ bảo chúng tôi phải tiếp tục cố gắng đào các ngôi mộ lên và lấy hài cốt ra. Có
điều gì đó liên quan đến việc các hài cốt sắp được chuyển về nhà. Sau một tuần,
chúng tôi không thể tìm được hài cốt nào. Rồi họ bảo chúng tôi ngừng việc tìm
kiếm".
Sau một lúc, ông già đó bước đi xa
khuất vào thế giới riêng của ông ta. Những lính biệt kích sau khi nghe những lời
nói lảm nhảm của ông ta nghĩ rằng họ đã hiểu phần nào những điều ông ta nói.
Chắc là Bộ phải cố tìm các hài cốt của các biệt kích đã chết ở Quyết Tiến trong
10 năm trước khi đình chiến. Chắc họ muốn có các bộ hài cốt, bộ hài cốt của bất
cứ người nào, nếu họ bị ép phải giao trả các hài cốt của các biệt kích đã
chết.
Các biệt kích biết rằng những ngọn
đồi xung quanh Quyết Tiến có đầy rẫy các nấm mồ. Các nghĩa địa được đắp trong
thời kỳ 1961-1965 đã bị bỏ đi từ lâu; trong những năm sau người ta sử dụng các
nghĩa địa mới hơn. Rồi những nghĩa trang mới hơn đó lại bị bỏ mặc cho cỏ và thời
tiết, không ai có thể nhớ được đã có bao nhiêu nghĩa địa được đắp. Vì thế họ
không lấy làm ngạc nhiên khi thấy ba ông tù chính trị già đã không tìm thấy gì.
Sau hết, việc chôn cất thường được tiến hành vào ban đêm, các ngôi mộ đều không
có bia. Dường như rất khó cho các cán bộ nhà giam ghi chép lại chính xác chỗ
chôn của từng người. Hơn nữa một số nghĩa địa cũ đã biến thành các ruộng trồng
rau từ nhiều năm trước, và tất cả các hài cốt đã trở nên hỗn độn sau nhiều năm
bị cầy xới.
Một lính biệt kích cũ tự nghĩ rằng
đó chính là loại công việc mà Bộ muốn làm. Anh biết làm gì khi anh cần các bộ
hài cốt của biệt kích và anh hoàn toàn không biết chúng ở đâu, nhưng anh lại cần
các bộ hài cốt để thoả mãn một người nào đó! Anh chỉ có thể đào mộ của một người
nào đó. Ai mà biết được có gì khác nhau?
Vào tháng 8 năm 1972, các lính biệt
kích được chuyển từ K1 đến K3. Không lâu sau khi di chuyển, một phái đoàn đã đến
Phố Lu dưới quyền chỉ huy của trung tá Xy thuộc Bộ Công an. Ông là một cán bộ
trại giam lão thành của Bộ Công an. Người ta báo cho các lính biệt kích rằng họ
sẽ được học tập chính trị về những thay đổi đang xảy ra ở Việt Nam, về điều mà
ông Xy gọi là "Tình hình mới và lịch sử của cuộc đấu tranh yêu nước chống lại
bọn xâm lược nước ngoài của người Việt Nam và những người anh hùng đã chống lại
những kẻ xâm lược trong thời gian qua". Có một nhóm gồm hàng chục cán bộ An ninh
đi theo trung tá, hầu như họ đều mặc quần áo thường.
Trong tháng sau, cả nhóm này đã tham
gia vào việc biên soạn chương trình huấn luyện. Ông trung tá bắt đầu việc giới
thiệu một chủ đề, còn các tù nhân phải chuẩn bị một bản đánh giá về tài liệu đã
được giới thiệu. Sau đó các nhóm tù gặp một cán bộ an ninh, người đã cẩn thận
hướng dẫn việc thảo luận về mục tiêu đã được xác định trước lớp học. Việc trình
bày có thể kéo dài từ nửa ngày đến một ngày, còn ngày hôm sau được dành cho thảo
luận nhóm và kiểm điểm cá nhân. Trong thời kỳ này mọi việc đều được hoãn lại, để
tập trung vào việc "học tập trao trả tù binh".
Ít nhất có 4 cán bộ của nhóm ông Xy
chịu trách nhiệm về giảng dạy chính trị, những người còn lại xét duyệt các hồ sơ
của tù nhân do cán bộ trại giam lưu giữ. Các thông tin trong hồ sơ của mỗi tù
nhân đều được đánh giá xác định phản ứng của người đó đối với tài liệu đã trình
bày.
Trung tá Xy tự cho mình là một nhà
thơ thành công và là người có học vấn uyên thâm, am hiểu về văn chương cổ điển
của Việt Nam. Trong nhóm của ông có một phụ nữ khoảng 25 tuổi, một nhân viên
nghiệp vụ của lực lượng An ninh có vóc dáng đẹp, ẩn hiện thấp thoáng dưới bộ
quần áo đen bóng loáng, cô cũng hiểu biết sâu về văn chương cổ điển Việt Nam, và
vì thế người ta không ngạc nhiên thấy ông Xy làm việc rất gần gũi với người cán
bộ nữ được ông che chở này.
Mỗi khi một tù nhân được gọi ra để
phỏng vấn cá nhân với một cán bộ, người sĩ quan này ngồi đối diện với tù nhân
qua một cái bàn, bao giờ cũng có một tách trà và một đĩa bánh nhỏ. Một số cuộc
phỏng vấn nhắc đi nhắc lại, không hơn việc xét duyệt hồ sơ là mấy. Những người
tù khác thì xem xét các điều ghi chú của tù nhân trong những năm đầu, những nhận
xét đặc biệt về một số cá nhân mà người tù đó đã phục vụ trong khi còn ở miền
Nam. Người cán bộ nhấn mạnh rằng nếu tù nhân đó muốn được phóng thích thì phải
có trách nhiệm đưa những vấn đề này ra trước các cơ quan liên quan.
Đối với một số tù nhân, thì cuộc
phỏng vấn này có tính chất đe dọa khi người cán bộ báo cho tù nhân rằng ông ta
có thể được mời ra “phục vụ cách mạng" nếu anh ta được phép trở về nhà. Thí dụ
một người nào đó có thể đến thăm và yêu cầu giúp đỡ trong "cuộc đấu tranh" để
đánh đuổi những kẻ xâm lược nước ngoài ra khỏi đất nước và đấu tranh với những
cán bộ tham nhũng. Nhận xét như vậy có một hàm ý rõ ràng là những người cộng sản
có thể sử dụng các tù nhân này sau khi họ được phóng thích. Người nào đã trải
qua một cuộc phỏng vấn này, khi đi ra cũng đều run sợ.
Trước khi phỏng vấn, mỗi tù nhân
phải hoàn thành một bản sơ yếu lý lịch mới nhất và kèm theo một tờ khai trình
bày thái độ của mình sau khi trở về miền Nam. Tờ khai này luôn luôn được kết
thúc bằng yêu cầu được hồi hương.
Đối với một số tù nhân, có tài liệu
thứ 3. Trong các cuộc phỏng vấn riêng, các người tù được lựa chọn, phải chuẩn bị
để yêu cầu được giữ lại ở miền Bắc.
Cán bộ này giải thích rằng mỗi tài
liệu có một vai trò riêng để hỗ trợ cho các cuộc thương lượng đang tiến hành
liên quan đến Hà Nội và chi nhánh của họ ở miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm
thời. Thí dụ, một tài liệu phác họa và cách những tù nhân dự định để cư xử sau
khi được phóng thích sẽ sử dụng để chứng minh rằng cá nhân đó muốn hồi hương về
miền Nam. Nó sẽ hỗ trợ cho yêu cầu hồi hương thông qua Chính phủ Cách mạng lâm
thời. Tài liệu thể hiện mong muốn ở lại miền Bắc sẽ được nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà sử dụng trong các cuộc thảo luận với chính phủ Sài Gòn để giải thích lý
do của một cá nhân không được hồi hương.
Mọi người đều hoàn thành hai tài
liệu đầu tiên. một số tù nhân có "cơ hội” để chuẩn bị tài liệu thứ 3 thì phải
hoàn thành tài liệu này. Còn những người khác thì không làm. Những người nào từ
chối yêu cầu ở lại miền Bắc thì không bị ép buộc phải làm thế.
Những người tù đầu tiên buộc phải
phỏng vấn cảm thấy rằng họ đã đóng kịch. Hầu hết đã rời đi với ấn tượng là mỗi
cuộc phỏng vấn đều được thu vào băng để đảm bảo việc ghi chính xác cuộc thảo
luận. Họ đã chuyển ấn tượng này cho những người đang chờ được phỏng vấn. Khi
những người khác sắp đến lượt phỏng vấn, họ biết rằng họ phải rất thận trọng đối
với mọi điều họ nói.
Trong khoảng hơn một tháng tập trung
học tập chính trị, trung tá Xy luôn áp đảo bằng cùng một câu hỏi: “các anh sẽ
trở lại liền Nam chứ, và khi nào?
Xy cố ý tránh bất kỳ câu trả lời cụ
thể nào. Thật vậy, ông ta thường gật đầu và cười. Những người biệt kích cũng nêu
ra thắc mắc với các giảng viên chính trị, nhưng họ luôn luôn lảng tránh. Một cán
bộ giải thích như sau:
- Nhà nước thật sự quan tâm đến các
anh, và hy vọng rằng các anh sẽ được trở về nhà. Chính các anh đã tấn công chúng
tôi. Chính các anh đã xâm phạm miền Bắc với âm mưu lật đổ chính quyền. Các anh
đã vi phạm pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đúng ra các anh sẽ
không được trở về, nhưng vì tính chất nhân đạo của Nhà nước, Nhà nước sẽ xem xét
từng trường hợp của các anh để xác định xem các anh có thể được trở về với gia
đình các anh không.
Việc bồi dưỡng chính trị và giảng
dạy ở Phố Lu cũng tương tự như các hoạt động ở nhà giam Hoành Bồ. Ở đây, các
lính biệt kích phải đương đầu với phân đội có đến 20 cán bộ kể cả một đại uý là
phụ nữ có tên là Hoa ở Bộ Công an dưới quyền chỉ huy của một trung tá. Có vài
lần, trung tá Xy đến Quảng Ninh và gặp riêng các cán bộ làm việc ở đó. Trong
phân đội đầu tiên có một sĩ quan trẻ hàm đại đội trưởng Tô Bá Oanh, tham gia vào
việc hướng dẫn và phỏng vấn từng tù nhân.
Đại uý Hoa tâm sự rằng có một số
biệt kích có thể được trở về trong khi các người khác sẽ không được trở về. Chị
tránh nói người nào. Sáng trưởng trại thì né tránh các cuộc thảo luận
này.
Trong các cuộc phỏng vấn cá nhân do
Hoa tiến hành, chị yêu cầu các tù nhân trao đổi “cởi mở và thẳng thắn", và cả
việc đối xử với họ trong nhà giam. Một tù nhân phàn nàn rằng cán bộ nhà giam
Quảng Ninh đã đánh đập những người tù. Về việc này chị trả lời rằng "những hành
động như vậy là các sai sót về phần của chỉ huy trại giam, có thể quên đi". Chị
cũng đề nghị các tù nhân, từng người một yêu cầu được giữ lại ở miền
Bắc.
Việc học tập ở Quảng Ninh bắt đầu
trong tháng 10 năm 1972 và kéo dài ít nhất đến tháng 12, khi các cuộc tập kích
của máy bay B52 làm cho các tù nhân phải chuyển đến các địa điểm sơ tán của trại
giam không xa nhau lắm. Ở đây họ có nghe nói về một người Mỹ "tiến bộ" tên là
Nam ở Hoành Bồ với một phụ nữ Việt Nam và có hai con.
Khi đợt học tập chính trị ở Phố Lu
kết thúc vào tháng 11 năm 1972, thì điều kiện sinh hoạt chung đã được cải thiện,
và mỗi người lính biệt kích bắt đầu tin rằng anh ta sẽ được trở về Cộng hoà Việt
Nam theo các điều khoản của các cuộc hoà đàm ở Paris, đến nay sắp được giải
quyết. Các cán bộ trại giam đối xử với các tù nhân đã mềm mỏng hơn. Bầu không
khí đã có phần lạc quan. Không có ai, kể cả các cán bộ trại giam và cán bộ của
Bộ Công an đã từng nói rằng những người lính biệt kích có thể được hoặc sẽ không
được hồi hương trong khi trao đổi tù binh, nhưng mỗi người lính biệt kích đã bắt
đầu tin rằng việc hồi hương chỉ còn vài tháng nữa thôi.
Vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp
định Hoà bình Paris đã được ký kết, việc ngừng bắn đã được hai bên thoả thuận và
có hiệu lực. Mỗi người lính biệt kích ở Phố Lu đều đọc bản sao Hiệp định do cán
bộ cung cấp. Các tù nhân đều chăm chỉ vào phần hàm ý rõ rằng họ sẽ được trở về
nhà, mặc dù các cán bộ còn ngập ngừng trong việc trả lời cho những câu hỏi nhắc
đi nhắc lại của họ. Mỗi người trong số họ đều trích ra một câu cụ
thể:
“Những ai có liên quan đến cuộc
chiến tranh ở Việt Nam thì đều được giải quyết và được trao trả.”
Đó là ngôn ngữ ngoại giao nói thẳng
rằng "Những ai có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ được hồi
hương".
Bây giờ những lính biệt kích này hy
vọng sẽ sớm được trở về nhà.
Họ được trả lại K1 vào tháng hai năm
1973 và được cấp các máy khâu, với lệnh may quần áo mới. Rõ ràng là họ sắp có
quần áo mới để hồi hương, và các cán bộ trại giam nhắc nhở rằng các quần áo này
phải được may nhanh. Các máy khâu này đã phải làm việc 24 giờ mỗi ngày. Một số
tù nhân cắt vải thành mảnh trắng để may các áo sơ mi ngắn tay và mầu xanh thẫm
để may quần. Trong khi những người khác may ráp các mảnh với nhau. Quần áo đã
được may đủ cho mỗi tù nhân hai bộ mới, một túi nhỏ để đựng quần áo và một chiếc
mũ. Tất cả các bộ quần áo này đều được cắt cùng một khổ. Sau khi may xong, chúng
được mang ngay vào kho của trại giam "để cấp vào một thời điểm thích
hợp”.
Cán bộ thường xuyên đến kiểm tra
công việc và luôn miệng nhắc "Đây là quần áo của các anh. Hãy may cẩn
thận.”
Mấy tuần Sau, giữa lúc việc trao đổi
tù binh đang được tiến hành, các lính biệt kích chỉ mong tìm được một cán bộ cho
họ biết họ sẽ được trả lại miền Nam như thế nào và khi nào. Họ không thể hỏi cán
bộ chỉ huy trại giam, thiếu tá Ngô Bá Toàn, vì anh ít khi đến khu vực của họ.
Cuối cùng họ phải hỏi trung uý Y, trưởng ban giáo dục và người phó của anh,
trung sĩ Hao Liêu. Câu trả lời lờ mờ của họ làm cho các tù nhân bỏ
đi.
"Hết cách?", họ cười nói: “Hết cách!
Không có cách gì để tất cả các anh sẽ được trao đổi. Chẳng có cách nào! Nếu các
anh xem cẩn thận, các anh sẽ thấy rằng không có một dấu chấm hay dấu phẩy nào
trong toàn bộ bản Hiệp định đề cập đến bất cứ người nào trong các anh. Chẳng có
gì cả. Tuyệt đối chẳng có gì cả. Thậm chí các anh còn không được nói đến. Hãy
chỉ cho chúng tôi một điểm, chỉ một điểm thôi, có nói đến bất kỳ ai trong các
anh, chỉ một điểm thôi".
"Nhưng, nhưng có đề cập đến việc trở
về của ai đã có liên quan đến cuộc chiến tranh này, chúng tôi đã tham gia, chúng
tôi là những người tham gia! Hiệp định nhất định phải đề cập đến chúng
tôi!"
Trung úy Y chỉ lắc đầu và lại cười.
Những lính biệt kích sững người.
Mỗi đêm, các loa phóng thanh trong
các trại giam của đài phát thanh Quân đội Nhân dân phát thanh trong 1 hoặc 2
giờ. Các tù nhân lắng nghe các mục nói về ngừng bắn và các báo cáo vế các tù
nhân đang được trao đổi, mặc dù bản tin này đọc rất chậm. Đó luôn luôn chỉ là
những nhóm tù binh nhỏ của Bắc Việt Nam đang trở về nhà. Trong khi số tù binh
của Bắc Việt Nam nhiều gấp 3 hoặc 4 lần đang được trở về miền Bắc. Khi nghe
những tin về việc hồi hương của các tù binh Mỹ, họ nghĩ rằng đây là dấu hiệu rõ
ràng rằng việc trao trả lại họ phải được thực hiện từ lâu trước đây. Họ đều nhận
biết rằng thành viên của các toán biên giới và các lính át chủ bài đã được trao
trả ở nơi khác. Điều đó dường như ngụ ý rằng các tù nhân đang được phiên chế
thành các nhóm để hồi hương.
Khi các cuộc trao đổi tù nhân đang
diễn ra chậm chạp thì những người tù ở Phố Lu cảm thấy rằng nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đang trao trả tù nhân rất chậm, như những ngư dân bơi thuyền ở
ngoài khơi, khi họ trong ngóng và đợi chờ, có lẽ để cân nhắc xem liệu có phải
trả biệt kích khi có ai đó đòi hỏi.
Nỗi lo sợ của những người lính biệt
kích đã tăng lên do một thực tế là các sỹ quan của lực lượng vũ trang Cộng hoà
Việt Nam bị bắt ở thành phố Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết 1968 vẫn đang còn
bị giam ở các nhà giam kỷ luật K1, họ đã ở đấy từ năm 1972. Phải chăng điều đó
có nghĩa là miền Bắc sẽ giữ lại một số tù nhân để mặc cả? Nhưng vì sao
vậy?
Và họ vẫn còn phải chờ…
Họ đã nghĩ rất đúng tới khả năng của
các cuộc đấu tranh giữa Washington và Hà Nội đang diễn ra ở mức cao nhất về vấn
đề tù chính trị. Những người lính biệt kích đều đã phạm tội hoạt động gián điệp
được Hà Nội coi là loại tù chính trị đặc biệt. Có lẽ Hà Nội không bao giờ có ý
định phóng thích họ, dĩ nhiên, trừ khi Washington sẵn sàng đưa ra hàng vạn tù
nhân ở Nam Việt Nam mà Hà Nội và Chính phủ Cách mạng lâm thời đang gọi là "các
tù chính trị bị chính quyền Thiệu giam giữ". Với yêu cầu phải phóng thích họ, mà
Washington thì không muốn bị dính líu vào bất kỳ sự thoả hiệp nào như vậy. Bắt
đầu từ tháng 2 năm 1973 các tù nhân Mỹ bị giam giữ ở miền Bắc được trao trả cho
các chuyên viên của Mỹ ở Hà Nội và được chở bằng máy bay về căn cứ không quân
Clack ở Philipin để lấy tin tức tình báo và kiểm tra sức khoẻ ban đầu. Một thiếu
tướng của Quân lực Hoa Kỳ dẫn đầu một nhóm người phỏng vấn bay từ Sài Gòn đến
căn cứ Clack để xử lý việc hồi hương của các thường dân Mỹ. Các nhóm phỏng vấn
Klao đại diện cho mỗi quân chủng cũng đã bay đến.
Những câu họ dùng để hỏi các tù binh
trở về là do cơ quan tình báo Bộ Quốc phòng (DIA) vạch ra, chính cơ quan này
trong năm 1965 đã hỗ trợ đắc lực cho các phi vụ của MACSOG và tranh luận rằng
các toán biệt kích ở trong lòng miền Bắc Việt Nam đang cung cấp các thông tin
tình báo có giá trị. Bây giờ người Mỹ xác định rằng yêu cầu ưu tiên về tình báo
này vẫn không thể giải thích được.
Đáng tiếc là văn phòng DIA chịu
trách nhiệm về vấn đề tù binh và những người Mỹ mất tích, sau đó do Charles
Trowbridge, tư lệnh Hải quân lãnh đạo đã không có báo cáo về các tổn thất của
biệt kích Việt Nam trong lực lượng của MACSOG. Những người Mỹ, chứ không phải
những người nước ngoài, quan tâm đầu tiên đến DIA, và DIA không có câu hỏi nào
về các cuộc hành quân vụng trộm của biệt kích Việt Nam, họ có thể vẫn còn bị
giam giữ. Trong những tuần hồi hương của những tù nhân Mỹ cuối cùng vào ngày 1
tháng 4 năm 1973, tư lệnh Trowbridge đang bị ép phải giảm biên chế. Hình tượng
bao trùm của các trại giam trong thời chiến đã bị xoá bỏ, trừ một số đặc biệt ít
ở địa bàn Hà Nội. Lầu Năm góc sớm chuyển sang mục tiêu xem xét tình hình của
những người Mỹ vẫn còn trong danh sách mất tích và quá trình báo tử của họ quá
chậm, chỉ dựa trên những phát hiện dự đoán. Thậm chí những lính biệt kích được
xác nhận là còn sống thì cũng chỉ được coi là một vấn đề thuộc về chính phủ của
họ, chứ không phải thuộc về Washington.
Trong những thường dân Mỹ hồi hương
có Larry Stark và Bob Olsen, hai tù nhân bị giam ở phòng kế tiếp với Lê Văn
Ngung ở khu B, trại giam Thanh Trì. Họ đã nói với những người phỏng vấn bất cứ
điều gì, nhưng cũng chẳng làm cho người Mỹ gợn lên mối quan tâm đối với số phận
của gần bốn trăm lính biệt kích đang sống thiểu não trong các trại giam của Hà
Nội.
Trung uý Nguyễn Quốc Đạt của không
lực Nam Việt Nam, một người anh hùng của các biệt kích đã gặp anh chớp nhoáng
khi anh đến trại giam của họ ở vùng cán xoong, cũng được các tù nhân Mỹ cùng
giam với anh ở Hoả Lò nhớ đến. Khi được phóng thích, những người Mỹ yêu cầu phải
làm điều gì đó để cứu anh ta, và các chuyên viên Mỹ đã có thể can thiệp để cứu
anh ta. Phan Thanh Vân, một phi công lái máy bay C-47 đã bị bắn hạ ở Ninh Bình
ngày 1 tháng 7 năm 1961 cũng được phóng thích, nhưng những người khác thoát chết
trong các vụ rơi máy bay thì đã chết trong trại giam lâu rồi.
Tháng tư năm 1973, Trung tâm Giải
quyết thương vong hỗn hợp (JCRC) ở Sài Gòn, do tướng Rôbert Kingston chỉ huy nộp
cho Bắc Việt Nam bản danh sách ưu tiên của nhũng người Mỹ và những người nước
ngoài chưa được giải thích, mà Hoa Kỳ quan tâm đến họ. Không có tên một biệt
kích nào xuất hiện trên bản danh sách đó hoặc các bản danh sách sau của người
Mỹ, người Việt và người các nước khác sau này được JCRC trình bày với người đại
diện của Hà Nội.
Việc chỉ huy mới của tướng Kingston
có nghĩa là sự quay lại một tổ chức mà ông ta đã phục vụ từ đầu cuộc chiến
tranh, nhưng dưới một dạng khác. Tại thời điểm đó, điều làm cho JCRC trở thành
một bộ phận của MACSOG và được biết dưới cái tên che đậy là Trung tâm JPRC.
Trước đây Kingston đã là sĩ quan dã chiến của các toán biệt kích xâm nhập vào
miền Bắc giữa năm 1967.
Ở cương vị mới của mình, tướng
Kingston kinh hoàng thấy rằng cơ sở dữ liệu về các tên của người Mỹ bị bắt được
đưa vào máy tính của JCRC vẫn chưa được giải thích, thật là một cơn ác mộng. Các
địa điểm mất tích của nhiều người Mỹ ở vùng biên giới đã được đưa vào máy tính
không chính xác. Trong những bức điện của ông ta chuyển về Washington nói về các
dữ liệu đã không đưa vào bất cứ cái tên nào của hàng trăm lính biệt kích do
MACSOG phái đi và cuối cùng họ được báo cáo là bị bắt (xem phụ lục
10).
Không phải là mọi biệt kích đều bị
giữ lại ở Bắc Việt Nam. Thí dụ như 9 trong số 10 người Việt Nam của toán
ILLINOIS, đã bị bắt ở Lào với binh nhất Frank Cius và trung sĩ Ronald Dexter đã
được Quân đội nhân dân Việt Nam cho hồi hương trở lại Cộng hoà Việt Nam ở điểm
trao đổi tù binh bên sông Thạch Hãn. Trong số những người này có Nguyễn Văn
Chiến, người phiên dịch của Dexter. Người Việt Nam thứ 10 của toán này, Hà văn
Sơn do bộc lộ "thái độ hiếu chiến" nên không được hồi hương. ( xem thêm Ánh
Sáng và Bóng Tối)
Những người Mỹ làm việc cho cơ quan
tình báo của đại tá William Le Gros tại văn phòng tuỳ viên quân sự đóng tại Sài
Gòn đã phỏng vấn Nguyễn Văn Chiến và các thành viên khác của toán này. Họ muốn
biết số phận của Dexter và phi hành đoàn của chiếc máy bay trực thăng Chinook bị
bắn rơi tại Lào, Chiến cho biết rằng Dexter đã bị người hộ tống đánh chết bằng
dùi cui ở phía Bắc thị xã Thanh Hoá.
Sau đó Chiến yêu cầu truy lĩnh tiền
lương căn cứ vào hợp đồng tuyển dụng của anh ta. Những người phỏng vấn này đã
trở nên kinh ngạc, Văn phòng tuỳ viên quân sự này gửi ngay một bức điện cho DIA
ở Washington nói rằng Chiến và những người khác sẽ không nói gì trừ khi họ nhận
được tiền truy lĩnh. Bức điện này ghi chú rằng việc phỏng vấn Chiến đã kết thúc
khi anh ta trở nên căm hờn về vấn đề truy lĩnh.
Các cán bộ Nam Việt Nam cũng phỏng
vấn Chiến và các thành viên khác của toán, những người ở cùng với các biệt kích
trong trại giam và những người sau cùng được biết là vẫn còn sống. Chưa ai được
hồi hương. Rồi Chiến và những người đã hồi hương khác trở về với gia đình. Đối
với họ, cuộc chiến tranh này đã qua.
“Chiến ư? Một toán đã hồi hương năm
1973? Tôi nhớ chắc chắn là như vậy. Họ yêu cầu được truy lĩnh. Họ phải đòi khoản
nợ này. Họ đã ký hợp đồng và họ phải được thanh toán. Tất cả những người lính đã
ký hợp đồng. Tiếc thay MACSOG đã bỏ đi. Chẳng nơi nào có tiền. Nhưng những người
Mỹ có một số tiền ở đâu đó và phải thanh toán hết theo qui định của các hợp đồng
của họ.”
"Còn về những người lính biệt kích
chưa được hồi hương thì sao?” Tôi hỏi. Anh ta trả lời: "Tôi không biết
rõ".
20. TUYỆT
THỰC
Thời gian trôi đi, số phận của những
người tù ở trại Phố Lu càng mờ mịt, khi các buổi phát thanh đưa tin rằng việc
trao đổi tù binh đã bị trì hoãn.
Theo cách "giải quyết của người châu
Á" thì việc vài người lính biệt kích ở trại F3 muốn vượt qua bức tường ngăn để
ăn cơm cùng với các biệt kích F2 vào ngày chủ nhật, trung tuần tháng 5/1973 được
coi là vô tội. Ngày chủ nhật sau, cảnh đó lại tái diễn. Vào ngày chủ nhật thứ ba
các lính biệt kích lại trèo qua bức tường này và khi họ ăn cơm xong thì người sỹ
quan trực trại giam đến. Nắm chặt tờ giấy trong tay, anh khoá cửa ngoài của khu
vực này và bước vào khu trại F3.
Anh cầm giấy đọc: "Theo lệnh của ban
chỉ huy trại giam yêu cầu tất cả các tù nhân phải giải tán và trở về khu vực của
mình".
Rồi anh ta làm động tác quay đằng
sau và rời khu trại, không nhìn trở lại, không ai nhúc nhích.Mười lăm phút sau,
người sĩ quan trực này quay lại và đọc lệnh giải tán lần thứ hai. Lại không ai
có phản ứng gì.
Sau lần thứ 3, khi sỹ quan trực này
vừa đi khỏi thì cánh cửa nhà giam bỗng nhiên được mở tung và anh ta quay vào.
Lần này có một số đông những người bảo vệ mang theo vũ khí đi theo. Trong khi
vài người bảo vệ luôn quay nòng súng chĩa vào các tù nhân thì những người khác
túm lấy Đặng Đình Thúỵ và kéo anh ta vào phòng giam kỷ luật, rồi cùm
lại.
"Không ăn! Tuyệt thực! Yêu cầu anh
em tuyệt thực! Tuyệt thực!".
Tiếng của Nguyễn Văn Tân rất rõ khi
anh thét lên những lời mà mọi người muốn nói ra, nhưng chỉ có Tân mới có can đảm
nói: "Chúng ta không ăn! Tuyệt thực! Yêu cầu tất cả anh em tuyệt thực! Tuyệt
thực!".
Là một lính biệt kích ở toán ROMEO
ít nói và hầu như không quấy rầy ai. Tân bắt đầu hô, ngay lập tức những người
khác cũng hô theo cho đến khi trở thành tiếng la hét om sòm.
"Tuyệt thực! Tuyệt thực! Tuyệt
thực!"
Tiếng hô cứ tiếp tục, tiếp tục khi
những người này trèo qua các bức tường từ từ để quay về khu trại giam của
họ.
Cuộc tuyệt thực bắt đầu vào ngày hôm
sau, ngày 4/6/1973. Người ta đã báo cho các cán bộ của Bộ Công an biết về việc
này. Theo ý kiến của họ, thì những người tù này phải câu kết với những người ở
bên ngoài vì các cuộc tuyệt thực đã nổ ra ở cả ba trại giam khổ sai biệt kích.
Điều đó có nghĩa là những người tù ở một trại giam đang liên lạc với những người
ở trại giam khác. Âm mưu thông đồng với nhau như vậy có thể làm cho Bộ máy An
ninh Quốc gia bối rối.
Trại Phố Lu đã tiến hành các biện
pháp cảnh giác cao về An ninh. Tất cả những người bảo vệ đang có mặt xô vào khu
K1 và triển khai dọc theo các bức tường ở bên ngoài, ngay bên trong trại giam và
bên ngoài khu giam biệt lập. Súng máy được bố trí ở các bức tường bên ngoài và
bên trong trại giam. Cuộc tuyệt thực này làm cho các cán bộ trong trại giam lo
sợ vì thiếu tá Toán, người chỉ huy trại giam đi vắng. Trung uý Nguyễn Văn Tuấn,
chỉ huy phó phải đối phó với sự nhiễu loạn trong trại giam chính, nhưng anh ta
thiếu kinh nghiệm trong cách xử lý việc này.
Sự thiếu kinh nghiệm và tính không
quả quyết của anh thể hiện rõ khi anh đi vào các nhà giam ở khu F2.
Mặc dù Tuấn cố nói lên thật to, rõ
ràng là để che giấu nỗi lo sợ của mình. Anh không sợ những lính biệt kích, nhưng
anh sợ rằng nếu xử lý tình huống này không đúng sẽ ảnh hưởng đến công việc của
anh.
Nỗi lo sợ này bộc lộ ra khi anh làm
ra vẻ can đảm nói: “các anh phải thấy rằng thực tế chúng tôi đã khống chế được
tất cả các anh. Ở đây các anh hoàn toàn nằm trong tay chúng tôi, nếu chúng tôi
bóp lại thì các anh sẽ chết, nếu chúng tôi nới lỏng ra thì các anh mới có thể
thở được. Ai nghĩ rằng việc này là đúng thì hãy đứng ra phía trước và tiếp tục
tuyệt thực. Chúng tôi sẽ tống khứ tất cả các anh".
Trung uý Tuấn đứng đó, tư thế đĩnh
đạc, chờ họ trả lời.
Ba lính biệt kích đứng lên trả
lời.
Lâu Chi Chân, một người nhái to, dày
dạn của toán CANCER bị bắt ở Vịnh Bắc Bộ năm 1966, là một trong ba người đó. Anh
ta bước lên phía trước, mở phanh ngực áo và hét to vào Tuấn:"Anh nghĩ là anh tốt
lắm à, có giỏi cứ bắn đi! Bắn! Hãy bắn vào ta đây, những tên cộng sản khát máu
dã man. Hãy bắn tao đi!".
Tuấn đứng đó sững sờ, mất niềm tin
trước khi quay đi và bước ra khỏi phòng giam. Những người bảo vệ đóng cửa và
khoá lại. Tuấn mới chỉ được rèn luyện và có kinh nghiệm trước những người tù
luôn phục tùng mệnh lệnh, với những người tù luôn tuân theo mệnh lệnh của cán
bộ. Còn loại cứng đầu tỏ ra đầy thách thức kiểu này là hoàn toàn mới đối với
anh. Tuấn đã mắc phải bệnh quan liêu cố hữu, chẳng làm được điều gì tốt hơn là
những việc làm sau.
Thiếu tá Toán trở về trại Phố Lu
ngay khi anh nhận được tin về cuộc tuyệt thực này. Ông đi thẳng vào các nhà giam
F2 cùng với người cán bộ chủ chốt của mình. Sau khi nhìn chằm chặp vào những tù
nhân một lúc, Toán nói hoàn toàn bình tĩnh: “Các anh thật là điên rồ, các anh có
biết không, thật là điên rồ. Vì sao các anh lại tuyệt thực? Hãy nhìn lại tất cả
các anh! Các anh đều đã quá mệt mỏi! Các anh sắp chết, và ai sẽ là người thua?
Chính các anh là những người sẽ phải chịu thua! Thôi hãy ăn đi. Tiếp tục ăn đi,
để có sức khoẻ tốt, rồi một ngày nào đó ai mà biết được có thể Đảng và Nhà nước
sẽ khoan hồng và cho các anh được về nhà, các anh chắc chắn sẽ được hồi
hương."
Thế đấy! Lần đầu tiên ông ta đã thực
sự nói ra cái từ trao trả! Suốt hai năm 1972-1973 ông ta đã lảng tránh từ đó.
Bây giờ sau một thời gian dài, ông ta đã dùng đến nó, nhưng từ này không có ý
nghĩa nữa, vì đã quá muộn.
Thiếu tá Toán đứng đó, ông mỉm cười,
ông gần như cười ra tiếng khi giọng nói của ông trở nên dễ cảm thụ: "Tất cả các
anh thật điên rồ. Tôi được biết tất cả các anh muốn cho Thụy được phóng thích.
Tôi cũng biết rằng các anh muốn các điều khoản của Hiệp định Paris được thực
hiện để tất cả các anh đều được trao trả. Nếu các anh muốn Thuỵ được trở lại, đó
là việc tôi có thể giải quyết ngay ở đây. Nếu các anh muốn tôi có thể thả cho
Thụy quay lại đây với các anh ngay chiều hôm nay. Còn về Hiệp định Paris thì đó
là điều rõ ràng nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của tôi. Vậy đấy. Tôi không có
thẩm quyền ở bất kỳ lĩnh vực nào khác. Khi Nhà nước chỉ thị cho tôi phải thực
hiện việc gì, tôi sẽ thực hiện việc đó. Khi Nhà nước chỉ thị cho tôi phải tiêu
diệt cái gì thì tôi sẽ tiêu diệt cái đó. Đó là những điều mà Nhà nước và Chính
phủ có thẩm quyền hướng dẫn và yêu cầu tôi thực hiện.”
"Còn về Thuỵ, tôi sẽ cho anh ta trở
về đây với các anh ngay trong chiều nay, nhưng tôi yêu cầu tất cả các anh tiếp
tục ăn uống bình thường sao cho các anh giữ được sức khoẻ để chuẩn bị cho ngày
mà Đảng và Nhà nước sẽ bố trí cho anh được về đoàn tụ với gia đình. Nếu tôi cho
Thuỵ trở lại thì liệu các anh có tiếp tục ăn uống bình thường không?”
Ngồi yên lặng, những người biệt kích
suy ngẫm về đề nghị của ông Toán, cuối cùng họ đồng ý tiếp tục ăn nếu Thuỵ được
thả. Không khí đối địch đã tan biến.
Đó là một thắng lợi nhỏ. Một số biệt
kích nghĩ rằng đó là một bước ngoặt quan trọng đầu tiên có thể dẫn đến những
việc khác sau này. Cuộc tuyệt thực này đã kết thúc và những người lính biệt kích
bắt đầu lui về các nhà giam của họ. Trong mấy ngày sau đó, cán bộ trại giam bắt
đầu gọi một số người đến báo cáo với sỹ quan trực ban họ biết những gì đã xảy
ra. Những người tù này có thể báo cáo với cán bộ của trại về những tên đầu sỏ,
những thông tin cần thiết giúp cho cán bộ này có thể xác định được sự trừng phạt
thích hợp. Các kế hoạch của họ trở nên không có hiệu quả, do một mảnh giấy được
cuộn lại và bắn bằng giây cao su vào các phòng giam F2. Mảnh giấy này có một
dòng tin ngắn: "Họ đã tổ chức một đơn vị tự nguyện để tấn công lại tất cả các
anh. Không được rời khỏi phòng giam của các anh".
Đó là cách mà những người tù đã liên
lạc với nhau có hiệu quả trong hàng chục năm. Đoạn tin này được bắn từ khu này
sang khu kia, đó là phương tiện liên lạc có hiệu quả cao chưa bao giờ ngừng.
Trong tháng 6, toàn bộ phân đội biệt kích ở các nhà giam Fl và F2 được lệnh
chuẩn bị chuyển tới các địa điểm mới. Trong danh sách đã chuẩn bị có 50 tên.
Những người tù này đã được tập hợp tại cổng trước sẵn sàng để được chở đi. Họ
thấy vài chiếc xe tải và nhiều người trong lực lượng bảo vệ bên ngoài đang chờ ở
cổng. Mọi việc có vẻ bình thường, chỉ là việc chuyển sang nơi khác.
Khi những người tù chuẩn bị ra khỏi
khu K1, một cán bộ đi tới và chỉ định một số người trong bọn họ xếp thành một
hàng và những người khác xếp vào hàng thứ hai. Rồi cán bộ này chỉ vào một hàng
có 21 tù nhân và nói rằng họ phải chuyển đến Quyết Tiến. Rõ ràng là danh sách 50
người này đã là một âm mưu có tính toán. Nó gồm có những phần tử chống đối trung
kiên, cũng như một số người tù được coi là những người đưa tin. Trong lúc lộn
xộn, 21 người đã được chọn bị đẩy lên một xe tải và chiếc xe này rời đi. Chiếc
xe thứ hai chở những người hộ tống có vũ trang thông thường đi sau chiếc xe
kia.
Việc lựa chọn cẩn thận và chuyển
ngay 21 tù nhân này có nghĩa là các cán bộ trại giam đã có thể phối hợp nhanh
chóng với Bộ Công an ở Hà Nội.
Rõ ràng việc chuyển này là quyết
định của Bộ mà chỉ huy trại giam không thể quyết định được. Các chỉ huy trại
giam chỉ có quyền kiến nghị một số hành động như việc di chuyển hoặc thả tù,
những gì thuộc thẩm quyền của họ.
Hai chiếc xe tải này dừng lại cách
nhà giam Phố Lu gần 20 km. Một cán bộ của ban giáo dục được chỉ định đi theo các
tù nhân đứng dậy đọc lệnh của Bộ Công an. Nội dung của lệnh xác định rằng việc
chuyển này là một quyết định của Bộ và chỉ thị không được đọc lại ở trại giam.
Lệnh đã rõ ràng, chính xác và báo hiệu những việc sẽ xẩy ra:
- Phụ cấp hàng tháng của các anh
được quy định trong hiệp định Paris sẽ bị đình chỉ ngay. Không ai trong các anh
kể từ ngày hôm nay sẽ được đặt ra ngoài bất kỳ điều khoản nào của hiệp định này.
Từ nay trở đi phụ cấp của các anh sẽ bị giảm xuống mức 12 đồng một tháng và các
anh sẽ phải tiếp tục cải huấn.
Anh ta bước xuống và đoàn hộ tống
lại tiếp tục đi, khi các xe tải này rú ga chạy về phía Quyết Tiến thì những tù
nhân còn lại ở Phố Lu trở nên lo sợ. Phần lớn họ tin rằng việc di chuyển này là
phân đội đầu tiên của nhiều phân đội sẽ được chuyển tới địa điểm khác để hành
hình. Những người biệt kích còn lại tụ tập ở các phòng giam F3. Họ tuyên bố rằng
họ quyết định ở lại với nhau và từ chối trở về các nhà giam.
Những người biệt kích này biết rằng
lực lượng bảo vệ của trại giam vẫn còn đang triển khai với các súng máy trên các
tháp canh. Nhưng các tù nhân không thể thấy được toàn bộ lực lượng bảo vệ vào
trại giam với các vũ khí tự động và sẵn sàng thực hiện giai đoạn tiếp theo của
việc trừng phạt gay gắt những người tuyệt thực. Ngoài lực lượng Công an vũ trang
một trung đội đặc biệt đã được Hà Nội phái đến với nhiệm vụ cụ thể là nhanh
chóng đàn áp cuộc tuyệt thực một cách có hiệu quả.
Thiếu tá Toán ra lệnh cho những
người bảo vệ đứng một bên canh giữ một cách tuyệt đối an toàn và trực tiếp: "Đàn
áp cuộc nhiễu loạn!".
**********
Võ Đại Nhân, phó Cục trưởng cục Lao
Cải (Ban chỉ huy lao động và cải huấn), nói chung đã thoả mãn với việc cải huấn
lính biệt kích ở nhà giam Tân Lập vào mùa thu năm 1972.
Mọi việc đều được tiến hành trôi
chảy cho đến khi ngừng bắn. Theo các điều khoản liên quan đến tình hình của
những tù nhân được hồi hương. Các cán bộ của trại giam coi đó là thời điểm thích
hợp để phân phát các tài liệu tuyên truyền cho các tù nhân.
Một lính biệt kích kêu lên: "Không!
Chúng tôi sẽ không đọc bản tuyên truyền này! Đây là một sự vi phạm nghiêm trọng
các điều khoản của Hiệp định. Ngăn cấm việc sử dụng tài liệu tuyên truyền làm
công cụ để gây ảnh hưởng đến các quan điểm của tù nhân".
Cán bộ của Nhân nhanh chóng rút lại
tài liệu này.
Những người lính biệt kích đã theo
dõi việc thực hiện Hiệp định, đặc biệt là phần nói về việc trao trả tù nhân.
Những tin tức này cho thấy rằng các tù nhân thực ra phải được phóng thích, trước
hết là những người Mỹ và sau đó là các báo cáo về cuộc đàm phán trao đổi tù nhân
qua sông Thạch Hãn. Bây giờ những người lính biệt kích ở Tân Lập nêu lên vấn đề
hồi hương của họ với các cán bộ của đại tá Nhân. Câu trả lời của Nhân đối với
các câu hỏi của họ là sẽ để cho họ họp với nhau trong một phiên họp chính thức.
Theo ông ta thì đây là thời gian thử thách cuối cùng.
"Không ai trong các anh được coi là
tù binh chiến tranh theo quy định của Hiệp định". Ông ta bắt đầu: "Tất cả các
anh là gián điệp. Các anh không phải là tù binh chiến tranh. Định nghĩa về tù
binh chiến tranh nói chung không đề cập đến các gián điệp biệt kích như các anh.
Nếu bất kỳ ai trong các anh được trao trả, thì các anh chỉ được trao trả cho
người Mỹ vì chính quyền miền Nam không thừa nhận rằng các anh là người của
họ".
Vài ngày sau, lời tuyên bố này được
tiếp theo bằng những lời tuyên bố khác của ông Nhân nói rằng người đại diện của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông Lê Đức Thọ, đang đàm phán với người đại diện
của Mỹ, tiến sĩ Henry Kissinger. Ông Nhân nói rằng các cuộc đàm phán này bao gồm
vài chủ đề, trong đó có việc trao trả các lính biệt kích cho người Mỹ, cũng như
số tiền mà Việt Nam Dân chủ Cộng hoà yêu cầu Mỹ bồi thường chiến tranh. Từ những
nhận xét này, rõ ràng là việc hồi hương của các tù nhân biệt kích có liên quan
với việc bồi thường chiến tranh mà Bắc Việt Nam cố sử dụng những tù nhân này làm
đòn bẩy để nhận được tiền của Hoa Kỳ.
Những người lính biệt kích lấy làm
sửng sốt. Họ không có cách nào để biết rằng điều này là thật hay giả, và lăng mạ
rằng Bắc Việt Nam vi phạm các điều khoản của Hiệp định, đã dùng họ như là "Vật
để mặc cả” để moi tiền của Washington. Một số lính biệt kích coi những nhận xét
của ông Nhân chỉ hơn lời tuyên truyền một chút để làm cho họ tức giận người Mỹ,
nếu họ không được trao trả. Sau đó trong trại giam có tin đồn rằng các cuộc đàm
phán giữa ông Thọ và Kissinger đã kết thúc.
Một buổi sáng có một đoàn của Bộ đột
xuất về thăm khu giam giữ biệt kích. Cán bộ chỉ huy nhà giam, đại uý Nguyễn Văn
Thùỵ cùng đi với đoàn.
Khi Thùỵ vào các phòng giam, anh ta
ra lệnh cho một biệt kích đến gặp Thực, một cán bộ của Bộ. Thực đọc cho người tù
này nghe lệnh của Bộ Công an.
Đây là quyết định của Bộ về việc anh
đã chống lại Nhà nước. Anh đã tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, nói xấu
Nhà nước, đã chống lại Nhà nước và đã lôi kéo những người khác cùng thực hiện.
Uỷ ban điều tra về những tội ác này yêu cầu anh phải chuyển đi nơi
khác.
Tù nhân này nhìn chăm chăm vào Thực
và sau đó cầm bản sao Hiệp định, chỉ vào điều khoản cấm chuyển tù nhân. Rõ ràng
là điều khoản này giải thích rằng việc chuyển tù nhân có thể dẫn đến việc những
người tù "khó hiểu” sẽ bị lực lượng giam giữ hành hình. Thực ra Hiệp định không
viết theo cách này, nhưng rõ ràng đã ngụ ý cấm việc di chuyển các tù nhân. Người
lính biệt kích này từ chối chấp nhận lệnh chuyển đi của Bộ.
Sau khi tù nhân này rời đi để gặp
Thực, những lính biệt kích khác đã vội vã chuyển tin nhanh bằng "mã hiệu gõ" về
việc một lính biệt kích đã có lệnh bị triệu ra ngoài. Họ quyết định tổ chức
tuyệt thực để biểu lộ hành động phản đối nếu xảy ra điều gì không thuận
lợi.
Quay trở về phòng giam của mình, tù
nhân này đã cho các người tù cùng phòng biết rằng anh ta sắp bị chuyển đi "khử".
Phản ứng của các người khác là phát động ngay cuộc tuyệt thực. Rõ ràng là người
tù này quay về phòng giam của mình và những người khác đã tham gia vào bước đầu
của cuộc rối loạn, một cán bộ nói rằng họ có thể ra ngoài trong một giờ để tù
nhân này thu thập các tư trang của mình. Đó là bước đầu trong cố gắng của họ để
làm cho tình hình này bớt căng thẳng. Một giờ sau khi cán bộ này từ chối đi vào
phòng giam và tuyên bố rằng họ đang tuyệt thực để chống lại chính quyền Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà không nghiêm chỉnh thực hiện các khoản của Hiệp định Giơnevơ và
việc trao trả họ.
Thục lệnh cho những người bảo vệ nhà
giam khoá các cửa phòng giam, rút ra từ khu giam biệt lập và khoá lối vào đằng
sau họ.
Cuộc tuyệt thực kéo dài trong 4
ngày. Cứ mỗi giờ cán bộ lại quay lại các phòng giam và kêu gọi những người tuyệt
thực đầu hàng. Những tù nhân này tiếp tục từ chối cho đến khi các yêu cầu của họ
được đáp ứng. Tình hình đã trở nên bế tắc.
Vào ngày thứ tư, đại tá Nhân từ Hà
Nội trở về và đến thẳng khu giam biệt lập. Ông đi vào một phòng có 9 biệt kích,
kể cả một người đã là đối tượng của lệnh chuyển đi đầu tiên. Tù nhân này được
lệnh đi ra, nhưng anh ta từ chối, trừ khi lệnh này được hủy chính
thức.
Với cấp bậc và chức vụ của mình,
Nhân không đem lại kết quả trong thương lượng với các tù nhân. Ông đi ra, và vẫy
tay ra lệnh cho các lực lượng An ninh vào khu trại giam. Họ kéo tất cả những
lính biệt kích này ra sân ngoài. Kẻ chống đối được đưa vào khu K1 và tiến hành
lấy khẩu cung tại chỗ. Theo những người biệt kích thì đó chỉ là sự kết án chứ
không phải là xét xử.
Nhân và người cán bộ khác ngồi sau
một chiếc bàn. Một cán bộ đọc lời tuyên bố đã được chuẩn bị, kể ra các tội lỗi
của tù nhân này. Đó là một bản liệt kê dài. Anh ta bị kết tội là chống lại việc
cải huấn, thoá mạ chế độ, tổ chức một bộ phận của những người tù khác tiến hành
chống đối xúi bẩy tuyệt thực. Người ta đã đọc bản án đầu tiên của anh ta, cũng
như bản liệt kê các vi phạm vào điều lệ trại giam từ ngày bị bắt, bao gồm 55
trường hợp anh ta đã bị kỷ luật về các vi phạm khác nhau. Quyết định của Toà án
đối với tội xúi bẩy tuyệt thực là án tử hình. Tù nhân này bị giam biệt lập và bị
cùm cả 2 chân. Ngày hôm sau anh ta được gọi ra để gặp Nhân, anh ta coi đó là
bước đầu tiên trong quá trình hành hình. Võ Đại Nhân đặt ngay câu
hỏi.
"Có thấy khẩu súng này không?”, ông
ta nói: "Đây là súng của Việt cộng, nó không phải là súng để bắn chim. Nó là
súng để bắn những tên phản động và những tên giống như anh. Các hành động của
anh ở đây đã được đài BBC lợi dụng. Đài này đã phát đi trên toàn thế giới về
cuộc tuyệt thực ở đây. Thế giới đã sử dụng cuộc tuyệt thực của các anh thành một
công cụ để tấn công chế độ của chúng tôi và chỉ trích hệ thống và Nhà nước của
chúng tôi".
Mai Văn Học tỏ ra hãnh diện. Anh ta
cười mỉm nhìn đại tá Nhân.
Nhân thét lên "Anh cười cái
gì?".
"Điều mà ông vừa nói với tôi có
nghĩa là việc làm của chúng tôi thật bõ công". Học cười lớn.
Nhân bắt đầu la hét. Rõ ràng là
không kiềm chế được mình, ông ta đá chiếc ghế và đập bàn. Ông gọi những người
bảo vệ đem tù nhân này về phòng giam kỷ luật và cùm cả hai chân. Kể cả sau khi
Học được đưa đi, Nhân vẫn còn tiếp tục nói lung tung, hất đổ bàn ghế trút tức
giận của mình vào bất cứ vật nào ở chung quanh.
Vài ngày sau bổ sung thêm các lính
biệt kích khác. Lần này ở khu K2 cũng bị chuyển đến các phòng giam kỷ
luật.
Vào ngày bị cùm thứ tư của Học. Nhân
gọi anh ta đến gặp một lần khác.
“Anh đã bị kết án tử hình nhưng tôi
vẫn chưa ra lệnh thi hành". Nhân nói: "Đừng có tưởng rằng chúng tôi sẽ để cho
anh sống. Một lý do duy nhất mà chúng tôi chưa bắn anh là vì tên của anh đã xuất
hiện trong danh sách những tù nhân sẽ được trao trả cho Mỹ. Tên của anh có thể ở
trong danh sách đó, nhưng chắc chắn là chúng tôi sẽ bắn anh trước khi có người
nào đó được trao đổi để chuyển lời cảnh cáo cho những người khác".
Hai tháng sau một nhóm có hơn 20 kẻ
phá rối đã được chuyển từ trại Tân Lập đến trại giam Quyết Tiến.
Đối với Bộ Công an thì các cuộc
tuyệt thực ở Tân Lập và Phố Lu không phải là vấn đề nghiêm trọng. Họ đã có sẵn
các kế hoạch phòng ngừa để đối phó với tuyệt thực. Tại một khu vực đang chú ý,
căn cứ vào những câu hỏi lặp đi lặp lại của cán bộ trại giam trước những tù nhân
sau sự kiện này, cho thấy rằng các cuộc tuyệt thực đã xẩy ra cùng một lúc ở các
trại giam biệt lập Theo ý kiến của các chuyên viên An ninh Quốc gia thì việc này
liên quan đến một loại kênh truyền thông bí mật đã làm cho các tù nhân ở một
trại giam này có thể phối hợp với các tù nhân ở trại giam khác.
Những tù nhân này chỉ dựa lưng vào
nhau và mỉm cười với nhau mỗi khi nghe thấy cán bộ trại giam thể hiện sự quan
tâm đến vấn đề này. Bộ Công an đã không bao giờ có thể phát hiện ra điều bí mật
đó.
21. TRỞ LẠI QUYẾT
TIẾN.
Cuộc tuyệt thực đã qua, nhưng sự tàn
nhẫn vẫn còn tiếp tục dưới sự quản lý mới.
Nhiều người trong số 21 lính biệt
kích đầu tiên được chuyển đến trại giam Quyết Tiến là những người tuyệt thực ở
Phố Lu. Trong khu trại mới này họ đã trải qua thay đổi đột ngột về sinh hoạt
trong tù, những công cụ gông cùm và biệt giam trước mắt cũng như lâu dài của chế
độ quản lý trại giam ban đầu đã thay thế cho việc sử dụng lao động để cải tạo
các lính biệt kích. Đầu tiên các cán bộ trại giam giảm các khẩu phần ăn của họ,
tiếp đến lệnh chuẩn bị hồ sơ tự kiểm điểm theo nghi thức. Sau đó họ được đưa vào
các phòng giam kỷ luật.
Những ngày phải lao động nhiều giờ,
tăng sản phẩm lao động, tự kiểm điểm và các buổi học nhóm đã thay thế bằng việc
giam dài hạn vôi các khẩu phần chết đói. Việc giam biệt lập này được tính toán
cẩn thận để làm mất phương hướng, nhầm lẫn, tê dại, mất cảm giác và làm cho mỗi
người tù chỉ còn tập trung vào sự sống sót. Kết hợp với việc giảm khẩu phần thực
phẩm hàng tháng ngay lập tức và quyết liệt. Việc giam biệt lập cũng đảm bảo rằng
những người trong các nhà giam kỷ luật không thể tiến hành một loạt hoạt động
nào khác. Nhưng ngược lại việc này cũng làm tăng thêm những cảm giác của lính
biệt kích về sự cô lập và cho phép cán bộ trại giam có thể đập tan bất kỳ sự câu
kết nào giữa những người lính biệt kích, đó là nhiệm vụ đầu tiên mà các cán bộ
trại giam đã thực hiện một cách khéo léo.
Việc gông cùm luôn sẵn sàng được
thực hiện ngay không do dự, là một hình thức trừng phạt mà mọi người đã biết nếu
họ tỏ ra ít quan tâm nhất đến cái mà cán bộ gọi là "lười biếng" hoặc bất cứ hình
thức đối xử nào khác có thể giải thích là sự xúc phạm tư tưởng XHCN hoặc hành vi
chống lại CNXH. Việc gông cùm đã được trù tính kỹ, được thực hiện một cách tinh
xảo và hoàn toàn hữu hiệu. Trung sỹ Tô, trưởng ban giáo dục trại giam là người
bắt đầu thực hiện việc này. Anh đã nhận được chỉ thị của đại uý Lang, cán bộ chỉ
huy mới của trại giam Quyết Tiến. Lang thích thú với cương vị mới của mình.
Trước kia anh là cán bộ cấp phó của người chỉ huy cũ, Nguyễn Sáng. Lang chú ý
nhìn trung sỹ Tô bước nhanh vào các phòng giam biệt lập, hạ sỹ Thua chịu trách
nhiệm về những tù nhân bị giam biệt lập cùng với Tô. Với một bó giấy và những
chiếc bút chì trong tay, Tô đi vào phòng giam những tù nhân mới đến. Anh mỉm
cười khi nhìn chung quanh. Những tù nhân này, một số thì ngồi còn số khác thì
nằm trong các ổ rơm, họ nhìn lại Tô đang có vẻ kiêu ngạo. Họ biết rằng anh sẽ
phải đương đầu với họ như là với một nhóm, vì không ai được chỉ định làm người
đứng đầu các phòng giam.
Giọng của Tô trầm nhưng dõng dạc:
"Ban chỉ huy trại giam đã hướng dẫn mỗi người trong các anh phải viết một bản tự
kiềm điểm, nêu rõ và đầy đủ mỗi hành động của các anh, các sai phạm của các anh
và nói rõ các anh dự định sửa chữa như thế nào".
Anh phát giấy và bút chì cho mỗi tù
nhân rồi bỏ đi. Tô ngại rằng các tù nhân này sẽ không viết điều gì và anh thật
sự không quan tâm. Số phận của 21 người này đã được đính đoạt. Các cán bộ chỉ
huy đã thảo luận về cách xử lý các tù nhân này, đặc biệt là nếu họ từ chối tuân
theo các mệnh lệnh. Để an toàn, lực lượng bảo vệ phải luôn cảnh giác, họ sẽ giám
sát chặt chẽ các lính biệt kích này. Nếu họ muốn bị đối xử hà khắc, thì sẽ được
hà khắc. Họ sẽ bị giam ở đây trong thời gian theo yêu cầu của Hà Nội và đây là
lúc để dạy cho họ một bài học. Chỉ còn một vấn đề là người nào sẽ được chọn
trước. Trong các nhà giam biệt kích, Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên được
chọn. Anh ta nhìn chằm chằm vào chiếc bảng treo trên tường có viết 4 điều quy
định đối với tù nhân. Họ đã được kiểm tra các quy định này ngay khi đến Quyết
Tiến ngày hôm ấy.
Thành thật thú nhận các tội lỗi của
mình. Cải tạo tư tưởng và bám sát các quy định. Cải tiến công tác. Giúp đỡ các
bạn tù khác được giáo dục lại và báo cáo cho Nhà nước biết bất cứ người nào khác
trong xã hội bên ngoài đã phạm các tội ác mà chưa bị bắt. Trước đây Châu đã thấy
các biển tương tự như vậy nhưng anh đã bỏ qua. Chúng là một phần của đời sống
nghi thức trong tù, nhưng lần này đã khác. Châu cương quyết bước lại gần tấm
biển, giật nó xuống và giẫm lên nó. Rồi anh quay đi và trở về chỗ ngủ của mình.
Anh nằm xuống và đánh một giấc.
Vào lúc 12 giờ trung sỹ Tô quay lại
để kiểm tra sự tiến bộ của họ. Các tờ giấy vẫn nằm đấy không được sử dụng. Anh
quay lại lần nữa vào lúc 14 giờ vẫn thấy rằng các tù nhân vẫn chưa làm gì. Anh
quay đi chẳng nói chẳng rằng. Vào lúc 18 giờ anh quay lại lần thứ 3 và vẫn chưa
điều gì được thực hiện. Đó là thời điểm để thực hiện bước tiếp theo.
Trung sỹ Tô xướng lên các tên Nguyễn
Văn Hinh, Nguyễn Văn Đô và một biệt kích thứ 3. Họ được những người bảo vệ kéo
ngay ra và đưa vào khu kỷ luật ở phía sau khu K, một dãy nhà có 18 phòng giam, 9
phòng ở mỗi bên, hành lang ở giữa. Tô biết rằng họ dễ có thể bị đưa vào dãy các
nhà giam với những tên phá rối này.
Tối hôm đó khi Tô quay lại khu kỷ
luật này, không ai viết một điều gì. Một hoặc 2 ngày sau đó vào lúc 18 giờ bỗng
có tiếng chó sủa kèm theo các tiếng kêu của một nhóm đông các tù nhân, cán bộ và
người bảo vệ. Buồng của phòng biệt kích được mở ra cho Tô vào cùng với những
người bảo vệ có vũ trang, trong đó có 4 người dắt theo những con chó Đức đang
gầm gừ. Khi những người bảo vệ ùa vào phòng giam này, thì lập tức diễn ra cảnh
hỗn loạn và họ đọc to những mệnh lệnh khó hiểu giữa tiếng chó sủa. Trung sỹ Tô
đứng đó với mảnh giấy trên tay, chờ cho tiếng ồn giảm đi. Anh nhìn lướt nhanh
khắp phòng giam trước khi đọc tờ ghi chú:
“Lê Văn Ngung, Nguyễn Minh Châu,
Trần Ngọc Bính, Đặng Đình Thuỵ, Hoàng Văn Vân, Nguyễn Văn Tập". Anh chỉ vào từng
tù nhân mỗi khi xướng tên của họ. Những người bảo vệ nhanh chóng tóm từng người
trong khi những con chó vừa sủa vừa kéo căng các dây dắt. Một lính biệt kích
đứng dậy, anh ta đang ngậm một điếu thuốc lá.
Tô bước lại quát: "Anh tưởng rằng
anh còn có thể hút thuốc ư, Ngung?". Vẩy bàn tay ra trước mắt người lính đó anh
ta làm cho tàn của điếu thuốc đó bay ra. Thái độ của Ngung rất đặc biệt. Thời
gian phải sợ hãi đã qua. Không ai sẽ được về nhà, vậy thì các cán bộ nhà giam có
thể làm gì, giết họ ư? điều đó không còn là vấn đề nữa. Cẩn thận triển khai khắp
bên trong trại giam, cảnh giác với bất kỳ sự nhiễu loạn nào khác là một lực
lượng có đến 50 người bảo vệ được trang bị đầy đủ với 4 hoặc 5 con chó săn. Khi
những người tù bị xô ra khỏi phòng của mình, thì những người bảo vệ lập tức xích
tay họ, kéo giật cánh khuỷu ra phía sau. Sau đó họ kéo lê những người tù ở bên
ngoài vào các phòng giam và vào dãy nhà biệt lập có các phòng giam kỷ luật.
Những người bảo vệ nhanh chóng đẩy các tù nhân vào bên trong. Cứ 2 người một
phòng. Mỗi người đều bị đè xuống sàn xi măng và mỗi người ở một phía. Các mắt cá
nhân họ bị đặt chéo và cùm lại, với thanh sắt xuyên qua các lỗ khuyên của chiếc
cùm giữ chân họ không nhúc nhích được.
*************
Trong những tháng trôi qua năm 1974
và sang đầu năm 1975, những người biệt kích ở Quyết Tiến chỉ biết rất ít về thế
giới bên ngoài. Họ gần như hoàn toàn bị cách ly. Họ chỉ biết được một ít tin tức
của thế giới bên ngoài qua một số tù thường phạm thi thoảng có người nhà đến
thăm. Những lính biệt kích này biết rằng nhịp độ của cuộc chiến tranh ở miền Nam
đã tăng lên, nhưng có rất ít tin tức cụ thể về những gì thực sự đang xảy
ra.
Rồi vào tuần đầu tháng năm năm 1975,
một cán bộ giáo dục của trại giam đột nhiên đi vào khu của họ và trương lên
những tấm ảnh về đời sống của miền Nam. Những người lính biệt kích lần đầu tiên
được thấy đất nước của họ kể từ ngày họ bị bắt, đối với một số người đã bị bắt
đến 14 năm. Người cán bộ này đã đóng xong các bức ảnh lên tường, anh đứng lui
lại để ngắm nghía công trình của mình. Anh nói: "Hãy xem chúng tôi đã giải phóng
Sài Gòn. Cộng hoà Việt Nam đã bị tiêu diệt và quân đội bù nhìn đã đầu
bàng!"
Những người lính biệt kích sững sờ
vì cơn sốt chết lặng người, không thể nói lên lời, không thể nói được gì ngoài
việc ngắm những bức ảnh trên bảng. Có một bức ảnh chụp các xe tăng của Quân đội
nhân dân Việt Nam đang ào xuống đường cao tốc Biên Hoà chuẩn bị tiến vào Sài
Gòn, bên cạnh một bức ảnh về chiếc xe tăng xông vào Dinh Độc Lập. Chiếc ảnh khác
chụp hai dãy An ninh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong
đồng phục màu trắng đứng hai bên đường xa lộ bên cạnh cổng trụ sở cảnh sát ở phố
Võ Tánh. Những người An ninh này đang chào quân Bắc Việt Nam tiến vào trụ sở
Cảnh sát quốc gia.
Những người lính biệt kích chăm chú
nhìn các bức ảnh dường như mô tả Sài Gòn, nhưng đó là Sài Gòn tràn đầy quân đội
Bắc Việt Nam.
"Vì sao họ đã không biết được tí gì
về việc này? Và vì sao chiến tranh lại kết thúc đột ngột như vậy?"
Nhìn chăm chú gần vào những bức ảnh
này, những người tù cố xác định xem đây là thực hay là những thứ mà Bộ sáng chế
ra để lừa dối họ hơn nữa. Phần lớn đã quay đi, về các phòng giam của họ bỏ công
việc còn dở dang lại đằng sau. Họ ngồi đầy thất vọng trong mấy ngày và không
chịu tin vào những gì họ đã thấy. Những người này đã hy vọng rất lâu rằng miền
Nam, hiện nay đã đầu hàng, ngày nào đó sẽ chiến thắng. Một sự đầu hàng, chỉ dựa
trên các tấm ảnh là quá đáng để họ có thể chấp nhận.
Khi những người lính biệt kích đầu
tiên bắt đầu nói về chủ đề này trong những ngày sau đó. Họ suy luận rằng đó có
thể là những bằng chứng về một loại chính phủ liên hiệp.
Hầu hết những người lính biệt kích ở
trại giam Quyết Tiến vẫn không chịu chấp nhận một thực tế về sự đầu hàng không
điều kiện và sự sụp đổ của nền đệ nhị cộng hoà của chính phủ Cộng hoà Việt Nam
cho đến năm 1977, hai năm sau sự kiện này. Chỉ đến khi họ gặp các sĩ quan của
các lực lượng vũ trang Cộng hoà Việt Nam đến lao động ở Quyết Tiến năm 1977, thì
những người lính biệt kích này cuối cùng mặt đối mặt với thực tế khắc nghiệt là
chiến tranh đã kết thúc thực sự.
Một trong những người đã đối mặt với
thực tế này là một người tù dài hạn tên là Ất, quê Hà Nội. Anh
ta bị bắt năm 1958, như là một biệt kích hậu cứ trong mạng điệp viên của Trần
Minh Châu, một trong những điệp viên hậu cứ được CIA đào tạo ở Tây Ban Nha năm
1954. Một số biệt kích bị giam ở Quyết Tiến trước năm 1972 biết anh ta ở đấy,
nhưng không rõ lắm vì anh ta đã bị giam cùng tù chính trị của Bắc Việt Nam. Hầu
hết những người biết anh ta trong giai đoạn này đều nghe nói rằng anh ta là
người chống lại những ai tin rằng với lý do nào đó, có ngày anh ta sẽ được phóng
thích. Nhưng sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, hầu như làm cho cá tính của
Ất
thay đổi đột ngột.
Ất vẫn còn những bà con sống ở Hà Nội, nhưng anh ta không
có những người bạn thực sự trong số những người ở trại giam. Vào năm 1975, người
ta biết anh là người còn sống sót cuối cùng của mạng điệp viên Trần Minh Châu.
Những người khác đã chết nhiều năm trước, phần lớn họ đều ở các nhà giam làm
bằng gỗ ở Quyết Tiến.
Ất đã thấy nhiều tù chính trị được phóng thích năm 1973.
Cả anh cũng muốn được phóng thích, nhưng anh biết rằng anh không bao giờ có thể
sống yên ổn ở miền Bắc vì anh đã phạm tội làm gián điệp. Anh chỉ có thể sống ở
miền Nam. Hy vọng này đã tan biến vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Một thời gian ngắn sau sự đầu hàng
này, Ất bắt đầu nói đến việc anh mong muốn được phóng thích.
Bây giờ cuộc chiến tranh đã kết thúc, đã có những cuộc đàm phán về việc phóng
thích tù chính trị. Ất cảm thấy rằng cơ hội duy nhất của anh là trở về quê
hương Hà Nội của mình. Trong quá khứ, anh đã nói rằng cuộc đời của anh là ở mạng
điệp viên, nhưng bây giờ mọi việc đã thay đổi: toàn bộ mục tiêu của anh là được
phóng thích và chứng minh rằng anh đã được cải huấn. Anh đã biết cách để thích
ứng.
Ất người ở phòng giam 11 đã được chỉ định làm người đứng
đầu nhóm may gồm có một nhóm hỗn hợp những người lính biệt kích ở các phòng 11
và 12 ở khu K. Người giúp việc của anh là một lính biệt kích, Đoàn Phương. Bây
giờ Ất
thể hiện bằng lời nói về sự khinh miệt đối với "các lính biệt kích bù nhìn".
Điều đó rõ ràng là anh không căm ghét những người biệt kích, mà đó chỉ là lời
nói của Cộng sản Việt Nam được lặp lại như đúc, nhằm để thuyết phục những người
bắt anh ta rằng anh đã thực sự thay đổi. Ất
đã phải báo cáo cho thượng sỹ Tín, một cán
bộ giáo dục chịu trách nhiệm theo dõi thái độ của những người trong nhóm thợ may
này.
Trước đây Tín chỉ là hạ sỹ ở Quyết
Tiến năm 1974, anh ta đã được đề bạt nhanh chóng. Cuối cùng những người lính
biệt kích đã quyết định phải làm một điều gì đó với những lời chỉ trích của
Ất
thường làm cho họ tức giận. Một hôm các thành viên của nhóm này đang đi hái rau
cho bữa cơm tối. Ất đã bước ra và nói đi nói lại rằng số rau này không được
nấu trong ngày hôm ấy. Anh ta có quyền quyết định như vậy vì những người tự chịu
trách nhiệm trồng rau là thành viên trong nhóm may của anh ta. Trong hoàn cảnh
bình thường thì người ta phải nghe theo những chỉ dẫn của anh, nhưng lần này do
sự phẫn uất trào lên họ đã chống lệnh của Ất.
Họ đã luộc rau trong căn nhà bếp của
nhóm này, trong khi Ất tức giận vì mệnh lệnh của anh ta đã không được tuân
theo. Những người biệt kích trao đổi với nhau và quyết định rằng đây là lúc phải
cho anh ta ăn một trận đòn, phải dạy cho Ất biết thế nào là lễ độ. Ngay trước
khi bữa ăn đã sẵn sàng, đa số tù nhân ở phòng 11 và 12 đã tụ tập đông đủ. Họ túm
lấy Ất
và đấm đá anh tới tấp. Đến lúc họ dừng lại thì hầu như anh ta đã bị đánh gần
chết và chỉ có thể bò lê trong phòng giam. Ất được chuyển đi
và trở thành nhóm trưởng của nhóm may 1, gồm các tù chính trị ở trong các phòng
giam biệt lập, sát với phòng họp của trại giam. Anh ta đã được phóng thích khỏi
trại giam và trở về Hà Nội vào cuối năm 1976 hoặc đầu năm 1977.
Ngày 2/9/1976, toàn bộ những người
trong trại giam được triệu tập đến phòng họp lớn phía trong cổng trước. Đại uý
Lãng đã đọc nhanh bản danh sách khen thưởng các nhóm lao động đã có thành tích
trong cuộc thi đua sản xuất. Sau đó mọi người đều ngạc nhiên khi anh đọc một bản
đã in sẵn:
- Trong dịp này, Bộ Nội vụ kỷ niệm
ngày 2/9 bằng sự ban hành một chỉ thị đặc biệt, nghị định về ân xá đặc biệt. Chỉ
thị này đã được ban hành với quan điểm thực tế là ngày nay đất nước đã được
thống nhất và để tỏ lòng khoan hồng của Nhà nước.
Lãng tiếp tục cẩn thận đọc nguyên
văn của nghị định dự kiến cho phép một số tù chung thân được chuyển sang làm
việc ở khu vực sản xuất và nhấn mạnh rằng việc này sẽ được áp dụng cho những
người đã cải huấn có kết quả. Sau lời giới thiệu này anh đọc chậm và dõng dạc
những tên, tội ác và các án quyết của hơn 20 biệt kích cùng con số tương tự của
các phạm nhân bị kết án chung thân. Những lính biệt kích này, hầu hết là những
người đã bị bắt trong những năm đầu của thập kỷ 60. Tất cả đã bị tống giam vì
tội gián điệp biệt kích và hầu như đã nhận án tù 25 năm.
Mặc dù nghị định này có điều khoản
"ân xá" song Lãng không bao giờ đề cập đến một người nào thực sự được hưởng ân
xá. Nhiều lính biệt kích cười thầm, cho rằng đó chỉ là một thí dụ khác về trò
chơi chữ của Bộ Nội vụ.
Khi các tên phạm nhân được đọc lên,
một số lính biệt kích cảm thấy tức giận. Họ biết rằng một số người được lựa chọn
đã không giữ được lòng trung thành. Tuy nhiên sau đó mọi người đều đồng ý rằng
những tù nhân được lựa chọn này là những thành viên của các toán bị bắt sớm
nhất, họ đã bị kết án dài nhất và khắc nghiệt nhất. Chỉ có một ít tên trong danh
sách này là những điệp báo viên đã được Hà Nội thu dụng. Còn những người cung
cấp tin tức tồi tệ nhất thì không có tên trong bản danh sách này, và điều đó làm
cho nhiều người nghe cảm thấy vui thích.
Đầu tháng 10/1976, một số tù nhân
được lựa chọn đã rời khỏi trại giam Quyết Tiến. Những người đã bị giam trong
phòng giam kỷ luật có thể nghe thấy những lời chào tạm biệt, nhưng họ không có
cách gì để biết về những điều đang xẩy ra .
Những lính biệt kích được coi là đã
chuyển đến trại giam Tuyên Quang bằng xe tải, nhưng đầu tiên họ được đưa đến thị
xã Hà Giang và bị giam ở trại giam của tỉnh Hà Giang cách thị xã 4km. Họ được
đặt dưới sự quản thúc tạm thời của lực lượng An ninh tỉnh và được phân công xây
dựng các nhà giam tạm thời.
Trong vòng 4 tháng họ lại được
chuyển về trại giam Trung ương số 1, trại giam Phố Lu ở bên ngoài thị xã Lào
Cai. Họ xây dựng các nhà giam ở trong khu vực rào bằng dây thép gai có tên là
Công trường Hồng Thắng. Đó là trại giam cách ly phụ của Phố Lu được gọi là trại
giam Hồng Thắng mà trước đây được biết là trại giam phụ K4. Số tù nhân ở Hồng
Thắng ngày càng đông lính biệt kích đến từ các trại giam khác.
Vào đầu năm 1977 rõ ràng là có điều
gì đó đang xảy ra dọc biên giới phía Bắc. Những người lính biệt kích ở Quyết
Tiến vẫn còn bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, nhưng họ vẫn có thể cảm nhận
thấy điều gì đó trong không khí này. Mùa xuân đó ba nhóm biệt kích đầu tiên đã
được chuyển đến trại giam Tuyên Quang hiện nay đã hoàn thành bởi những tù nhân
đã chuyển đến trong mùa thu năm 1976 theo nghị định ân xá đặc biệt. Cùng đi với
họ đến Tuyên Quang là những lính biệt kích Đài Loan còn sống sót ở trại giam
Quyết Tiến. Nhiều lính biệt động cũng được tha có điều kiện và được chuyển đến
công trường Hồng Thắng ở trại giam Phố Lu trong mùa xuân đó, như là một bộ phận
của điều được gọi là giai đoạn 2 của việc thực hiện Nghị định ân xá đặc biệt
này. Trong năm 1977, có cuộc đàm thoại ở Washington về việc bình thường hoá các
mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Nhưng Việt Nam vẫn chưa có hoà bình.
Vì các đám mây chiến tranh đã hình thành, Bộ Nội vụ và Quân đội nhân dân Việt
Nam bắt đầu chuyển một số lớn tù nhân từ khu vực lân cận của các vùng biên giới
với Trung Quốc và Campuchia, nơi có dấu hiệu về các hành vi thù địch. Đó là một
lý do đặc biệt. Khi cuộc chiến tranh nổ ra, Việt Nam đã không cần đến đội quân
thứ năm có tiềm lực ở sau lưng mình.
Vào cuối năm 1977, hầu hết các tù
nhân ở Quyết Tiến đã được chuyển về Tuyên Quang, trừ một nhóm nhỏ cỡ trung đội
còn được giữ lại ở phía sau để duy trì trại giam, xây dựng lò bánh mì và một hệ
thống thuỷ lợi cần thiết để mở rộng sản xuất lương thực và chuẩn bị bàn giao
trại giam này cho Quân đội nhân dân Việt Nam sử dụng làm trụ sở của họ. Một nhóm
nhỏ của những tù nhân mới, nguyên là các sĩ quan và cán bộ dân sự của Nam Việt
Nam đã đến để giúp họ. Những lính biệt kích ở Quyết Tiến cứ 4 tháng 1 lần được
thay thế cho những người ở Tuyên Quang. Trong năm 1978, những người lính biệt
kích cuối cùng được rút khỏi Quyết Tiến, trở về Tuyên Quang.
Khi những hoạt động thù địch ở biên
giới tăng lên trong năm 1978, những tù nhân ở Tuyên Quang được chuyển đến trại
giam Trung ương số 5, trại giam Lam Sơn ở tỉnh Thanh Hoá. Những tù nhân ở trại
Phố Lu cũng được chuyển về phía Nam, một số được chuyển đến trại giam 52, trại
giam Hà Tây ở tỉnh Hà Sơn Bình và một số tương đối nhỏ được chuyển đến trại giam
Kim Bôi. Những cuộc di chuyển này phù hợp với việc di chuyển các sỹ quan nam
Việt Nam từ các nhà giam ở các tỉnh phía Tây Bắc, đang được quân đoàn 776 của
Quân đội nhân dân Việt Nam có trụ sở ở Yên Bái quản thúc, được chuyển về các
trại giam an toàn hơn ở đồng bằng sông Hồng.
Mùa xuân đó, Lý Cà Xa, rồi một tù
nhân ở Hồng Thắng và một tên tướng cướp nổi tiếng trong các băng cướp bị bắt
trong những năm trước đây đang xây dựng trại giam chính ở đó. Lý Cà Xa trốn sang
Trung Quốc cùng với một nhóm độ 10-20 người được tạm tha khác kể cả một số biệt
kích Đài Loan và 2 biệt kích Việt Nam-Lê Trung Tín và Voòng A Cau, Tín và Cau là
những người lính biệt kích đầu tiên đã trốn thoát khỏi nhà giam có kết quả, cho
dù họ chỉ trốn sang Trung Quốc.
Vào tháng giêng năm 1979, đại đa số
tù nhân ở Trại giam Phố Lu đã được sơ tán. Tuy nhiên những người lao động ở Hồng
Thắng vẫn đang phải làm việc hết tốc lực ở đó. Trong tháng 2/1979, các lực lượng
của Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tấn công qua biên giới và nhanh
chóng tràn vào các huyện biên giới của Lào Cai, Lý Cà Xa đã đi cùng với lực
lượng tấn công đầu tiên và hộ tống quân Trung Quốc vào trại giam Phố Lu. Những
người dân Thị xã này kinh hoàng chạy qua trại giam Phố Lu khi họ được báo là
Quân đội nhân dân Trung Quốc đã vào thị xã Lào Cai. Trại giam này rơi vào tình
trạng hoảng loạn. Những cán bộ trại giam còn lại chuyển các tù nhân và những
người tạm giam ra ngoài thật nhanh. Một người được tạm tha lái một chiếc xe ủi
đến đến địa điểm tập kết ở Yên Bái đã mất tích. Khi những tù nhân bắt đầu định
cư ở khu 1 của trại giam Trung ương số 5 thì một nhóm nữ tù nhân đã đến đó. Họ
đã được chuyển ra khỏi trại giam Phố Lu khi các toán quân Trung Quốc tiến vào
sâu. Một cán bộ phụ trách các phụ nữ này đã nhanh chóng rời đi để hộ tống họ.
Sau này các tù nhân đó đã nói lại rằng quân Trung Quốc đã tàn phá cả hai trại
giam Phố Lu và Phong Quang.
Những tù nhân ở Hồng Thắng cũng được
chuyển về trại giam Tân Lập, ở đó họ xây dựng một trại giam mới, trại K7. Những
người khác, từ Quyết Tiến đến ở trại K1 của trại giam Trung ương số 5 ở Thanh
Hoá. Tại đây họ thấy một biệt kích già, bây giờ là người gánh nước và một nhóm
sĩ quan của chế độ Việt Nam Cộng hoà. Đó là thiếu tá của Sài Gòn-Văn Văn Của mà
nhiều lính biệt kích còn nhớ được từ những ngày còn ở Nam Việt Nam trong năm
1966-1967. Những người tù Nam Việt Nam được chuyển đến nhà tù Lam Sơn sau cuộc
tuyệt thực của họ ở trại giam trước, như cuộc tuyệt thực của biệt kích nổ ra năm
1973 trại Phố Lu.
Cuối năm 1979, các biệt kích ở Lam
Sơn được chuyển đến trại giam Thanh Phong ở huyện Thọ Xuân-Thanh Hoá. Những lính
biệt kích được tạm tha ở trại K7 Tân Lập và đại uý Tô Bá Oanh cũng được đưa đến
trại lao động Thanh Lâm. Tháng 12 đó, một số người được tạm tha đã được về thăm
gia đình họ. Nhiều người đi về miền Nam và không bao giờ quay trở lại
nữa.
Có lẽ đó là điều
mà miền Bắc muốn nó xảy ra, hoặc có lẽ đó chỉ là một biện pháp khác để kiểm tra
công tác "cải huấn" của họ.
No comments:
Post a Comment