Phần I
GIAI ĐOẠN MỞ ĐẦU
(1945-1963)
1. KẾT GIAO VỚI HÀ NỘI
Các toán điệp viên được Mỹ đào tạo
kiểu như CASTER vẫn là sự tiếp nối các bài bản về công tác tình báo bí mật của
Mỹ đã tồn tại ở Việt Nam gần hai thập kỷ qua.
Hoạt động
lớn đầu tiên của Mỹ là vào mùa xuân năm 1945 dưới sự chỉ huy của Archimedes
L.A.Patti - Phụ trách khu vực Bắc Đông Dương với nhóm cơ quan công tác chiến
lược (OSS) đóng ở Côn Minh, Nam Trung Quốc. Theo Patti, người được giới thiệu
tới cơ sở vào năm 1943, khi thôi làm ở Tổng hành dinh của OSS Washington thì lực
lượng địa phương ở Đông Dương là Việt Minh do Cộng sản thống lĩnh.
Việc Việt
Minh chủ yếu do Cộng sản nắm quyền không quan trọng bằng sự xuất hiện trong bản
thân lực lượng Việt Minh, một tổ chức rộng rãi những người theo chủ nghĩa dân
tộc, tạo điều kiện cho Mỹ có thể xâm nhập và ủng hộ trong toàn Đông Dương. Hơn
nữa, trong chiến tranh Thế giới thứ 2 thì OSS phối hợp một cách tích cực với các
lực lượng dân tộc chủ nghĩa khác nhau phát triển từ Pháp cho đến Trung Quốc.
Theo như cách nhìn nhận của Patti thì cách giải quyết mà ông ta đã đưa ra trong
giai đoạn 1945 là có được kết quả phù hợp với chính sách của Washington tại thời
điểm đó, chứ không phải sản phẩm riêng được tạo nên bởi sự đánh giá chủ quan của
Patti. Như vậy Việt Minh đã biết Mỹ tiến hành hoạt động bí mật ở Đông Dương như
thế nào không phải bằng cách đánh cắp mà là thông qua các sĩ quan OSS, những
người đã đào tạo các nhân viên Việt Nam hoạt động theo kiểu Mỹ.
Việc
làm đầu tiên của Patti là gặp lãnh tụ Việt Nam, Hồ Chí Minh ở Trung Quốc. Chẳng
bao lâu sau đó, Hồ Chí Minh và những người Việt Nam khác được đưa vào hồ sơ của
Patti như những người cộng tác của Mỹ. Tháng 7 năm đó Thiếu tá Allison R.
Thomas chỉ huy trưởng của toán DEER có tên là "Con nai" của OSS, đã nhảy dù
xuống Bắc Việt Nam, gần Tuyên Quang, nơi mà ông ta đã trực tiếp gặp Hồ Chí Minh.
Cùng đi với Thomas có hai thượng sĩ Mỹ, một sĩ quan Pháp và hai người Việt
Nam.
Những nhiệm vụ mà OSS và những nhóm
nhỏ của họ phải giải quyết ở Đông Dương là rất lớn. Nó bao gồm một loạt các mối
quan tâm về tình báo chiến lược cũng như chiến thuật của Mỹ trên toàn Đông
Dương: cung cấp các tài liệu của Nhật, tiến hành chiến tranh tâm lý, điều tra
các lực lượng của Nhật, phát hiện các phi công Mỹ bị bắn rơi, các tù binh Mỹ
(POW), cùng với các thông tin về tội phạm chiến tranh của Nhật Bản. Một trong
những nhiệm vụ đầu tiên mà Hồ Chí Minh đã làm là: lãnh đạo sự phối hợp của Việt
Minh để thu thập và chuyển thông tin cho OSS ở Trung Quốc về các lực lượng của
Nhật Bản ở Đông Dương. Khi mùa hè đến thì các chuyên gia đào tạo của Patti đã
giúp lực lượng tuyên truyền võ trang non trẻ của Võ Nguyên Giáp xây dựng và đào
tạo hai đơn vị tác chiến đặc biệt đầu tiên của Việt Minh. Để giúp cho việc lập
kế hoạch các hoạt động của OSS, có rất nhiều hồ sơ từ Côn Minh liên quan đến các
cá nhân và tổ chức mà OSS đã gặp và sẽ có khả năng gặp.
Sau khi đến Côn Minh, Patti đã kết
luận rằng: Hai tổ chức chính trị lớn khác là Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng
hoàn toàn thân Nhật không đáng tin cậy vì một bộ phận của VNQDĐ đã có quan hệ
với cơ quan tình báo quân sự Nhật trước khi Patti đến Việt Nam. Quốc dân đảng là
phái thân Trung Quốc hoạt động chủ yếu ở Bắc Việt và theo mẫu hình của Quốc dân
đảng của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (QDĐ), Patti đã phát hiện ra rằng: những
đảng viên của Quốc dân đảng mà ông ta tiếp xúc và làm việc đã cung cấp thông tin
về những hoạt động của ông ta cho cả Trung Quốc và Pháp. Patti cho rằng những
hoạt động trên đã loại trừ các nhóm, vì những lợi ích chính trị của họ đi ngược
lại với những lợi ích của Mỹ, ra khỏi việc liên minh với OSS, nếu không thì các
mục tiêu tình báo của Mỹ sẽ bị tổn hại.
Khi Đức chuẩn bị đầu hàng thì rất
nhiều nhân viên tác chiến của OSS đã được cử đến Côn Minh. Theo Patti thì vấn đề
cơ bản là phải thuyết phục các sĩ quan trẻ, hăng hái đọc tất cả các tài liệu gốc
và nghiên cứu kỹ trước khi ra chiến trường, giống như là họ đang ở trên chiến
tuyến nước Pháp.
Vào cuối tháng 8, Patti đến sân bay
Gia Lâm, Hà Nội để giải quyết vấn đề đầu hàng của Nhật. Đến sau là Lucien
Conein, một sĩ quan có trình độ, một nhà ngôn ngữ gốc Pháp, mới được chỉ định
vào lực lượng OSS ở Côn Minh. Đầu tháng 9, tại Quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh
đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập và tuyên bố chính thức thành lập Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng Hoà lâm thời. Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông ở miền Nam Việt Nam
được Việt Minh đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. (1)
Một cái tên đầy ý nghĩa dù chỉ tồn
tại ngắn ngủi, chủ yếu là trên giấy tờ chứ chưa phải trên thực tế.
Theo Patti thì cái chết của Tổng
thống Roosevel năm 1945 là kết thúc quan hệ ngắn ngủi của Mỹ đối với nước Việt
Nam độc lập của Hồ Chí Minh. Các mối quan hệ của Hồ Chí Minh với Mạc Tư Khoa bị
Washington coi như là dấu hiệu bành trướng của sự cấu kết Cộng sản quốc tế rộng
lớn đang đối chọi với Mỹ. Những hành động của Mỹ cùng với các liên minh lục địa
của mình trong việc xây dựng lại một Châu Âu đã bị chiến tranh tàn phá-kể cả
nước Pháp đồng nghĩa với việc Washington tạm thời chấm dứt kêu gọi độc lập cho
các nước thuộc địa của Châu Âu. Cuối tháng 10 năm đó, Patti và các sĩ quan OSS
khác rời Việt Nam và những lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho chính quyền
Truman không được trả lời. Mùa xuân tiếp theo, quân đội Pháp quay trở lại để
giành lấy thuộc địa của mình ở Đông Dương.
Năm 1952, Pháp bị sa lầy trong cuộc
chiến tranh với Việt Minh đã phải nhường lại cho lực lượng Việt Minh phần lớn
các khu vực miền núi ít người ở Bắc Việt. Vào thời điểm đó, đa phần cán bộ Việt
Minh không thuộc đảng cộng sản đã rời bỏ Việt Minh. Lúc ấy có một sĩ quan Mỹ
trẻ, lần đầu đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ. Anh ta đã kể lại những ấn tượng
và nhận xét của mình trong năm 1952 ở Bắc Việt như sau.
“…Quan điểm
chính thức của những người ở Bộ Ngoại giao Mỹ là ủng hộ đường lối thân Pháp, ủng
hộ Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đại sứ Mỹ thời kỳ này là Donald Heath
tỏ ra trung thành với chính sách đó. Vì vậy có sự xung đột giữa phó trưởng đoàn
ngoại giao (DCM) và đại sứ. Mỗi khi đại sứ xuống các địa phương hay đi đến một
trong những nước mà mình phụ trách như Lào và Campuchia, thì Gullian liên tục
đánh điện về Mỹ báo cáo những vấn đề bất đồng với đại sứ. Sao ông ta lại có thể
làm những điều đó được? Bởi vì ông ta được Dan Adeson ủng hộ."
Pháp hiểu tương đối rõ về Việt Minh
và các chiến thuật của Mặt trận thống nhất mà Việt Minh đang sử dụng, đó là một
liên minh của các nhóm khác nhau. Đối với đảng Đại Việt, họ là những người hoàn
toàn bị lừa gạt bởi ý tưởng là Nhật sẽ trao độc lập cho họ. Đảng Đại Việt trung
thành với Nhật Bản, bởi vì Nhật nói rằng: khi nào chiến tranh Thế giới thứ hai
kết thúc, thì lập tức họ sẽ được độc lập. Vì vậy, họ trở thành Đảng cánh hữu,
Đảng lớn nhất, lớn hơn tất cả những Đảng còn lại, kể cả Việt Minh. VNQDĐ được
gọi là một biến tướng ở Việt Nam của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ có rất nhiều
đảng viên và cơ sở.
Pháp và Việt Minh có những mục tiêu
giống nhau đối với Việt Nam Quốc dân đảng. Mục tiêu của Việt Minh rõ ràng là
loại trừ càng nhiều càng tốt những nhóm người theo chủ nghĩa dân tộc, và họ
không tìm cách hợp tác với Pháp.
Pháp muốn loại trừ VNQDĐ bởi vì
VNQDĐ có nhiều khả năng cầu cứu các nước Phương Tây kể cả Mỹ, bởi họ là những
người theo chủ nghĩa dân tộc thuần túy. Pháp rất quan tâm đến việc loại trừ họ
vì Pháp muốn chính mình chiến đấu với Việt Minh cũng như đóng vai trò là bức
tường thành chống lại sự xâm nhập của Cộng sản trong khuôn khổ của Châu
Âu.
Vì vậy việc chống lại Việt Minh dễ
dàng hơn là chống lại VNQDĐ-một Đảng được coi như là một tổ chức theo chủ nghĩa
dân tộc thực thụ. Do đó, cả Pháp và Việt Minh dù muốn hay không trong thực tế đã
cộng tác với nhau, đấu tranh để loại trừ VNQDĐ-một Đảng được coi là có khả năng
đứng vững.
Trước khi đạt điều đó thì trong
chúng tôi có rất nhiều người ủng hộ quan điểm dàn xếp với VNQDĐ và thuyết phục
chính quyền Mỹ một lần nữa suy nghĩ về vấn đề ủng hộ Pháp và tiếp tục cuộc đấu
tranh chống Việt Minh đồng thời ủng hộ những người theo chủ nghĩa dân tộc thực
thụ. Tôi ủng hộ quan điểm này và cả Edmond Gullian là người của sứ quán Mỹ cũng
ủng hộ. Vì những quan điểm này, trước tiên giúp chúng tôi thiết lập một mối liên
lạc dưới hình thức bí mật và sau đó là việc xâm nhập vào tổ chức của VNQDĐ. Vì
vậy, họ rất hiểu chúng tôi và chúng tôi cũng rất hiểu họ.
Cuộc tranh luận này đã kéo dài giữa
đại sứ Mỹ và những người ở Washington với Ed.Gullian, người được những nhân viên
tình báo dạng như tôi ủng hộ. Theo tôi thì ở chừng mực nào đó, nó còn được tiếp
tục tranh luận ở Washington . Nhưng các áp lực thì quá lớn. Quyết định không can
thiệp… VNQDĐ đã mất đi tính liên kết tuy nó vẫn là một tổ chức, nhưng không còn
là một tổ chức mạnh nữa(2). Vì vậy chỉ còn một cách lựa chọn khác là công
giáo.
-----------
(1). Ở đây tác
giả đã có nhầm lẫn về việc đổi tên thành phố SG thành Thành Phố Hồ Chí Minh năm
1945.
(2). Đoạn này người dịch có lẽ
không dịch đủ ý, nhưng có thể hiểu là sự lúng túng của Mỹ trong việc lựa chọn
một lực lượng chính trị nào đó mà có thể điều khiển được và là không cộng
sản.
Tôi nghĩ công giáo đã không được
tiếp cận một cách đúng đắn. Mà thực tế phong trào công giáo rất có kỷ luật ở
Việt Nam. Họ có thể được Vaticăng chú ý, nhưng ở Việt Nam thì chưa hẳn đã như
vậy. Trong thực tế thì công giáo chia làm 3 nhóm chính : Một Tổng giám mục ở Sài
Gòn, một ở Phát Diệm và một ở Bùi Chu. Những nhóm này rất khác nhau và hoạt động
theo những phương thức khác nhau. Những người công giáo rất trung thành với
họ.
Họ có một truyền thống mạnh mẽ thậm
chí rất khủng khiếp, và ủng hộ đối với những vấn đề mà trên thực tế sẽ có hiệu
quả để chống lại Việt Minh.
Người sĩ quan ấy bây giờ đã về hưu
kể lại rằng: năm 1952, ông ta đã được cấp trên của mình hỏi : "Liệu anh có
thể làm nổ một trong những cái cầu lớn ở vùng Việt Minh không?”
Điều này đối với tôi có vẻ hợp lý,
vì vậy tôi đã tổ chức một nhóm phá hoại bao gồm phần lớn là người Trung Quốc và
chúng ta đã thực hiện khá tốt. Phần lớn là tôi đưa chất nổ C-3 vào. Tôi có rất
nhiều C-3 dự trữ và chúng tôi phân tán ra. Những người này vận chuyển và bị Pháp
bắt khi vượt qua ranh giới vào vùng của Việt Minh.Chuyện ầm ĩ cả lên, những
người Pháp thì nổi nóng . . .
Bây giờ có hai vấn đề xảy ra: Pháp
cử…trùm tình báo của mình….Đến Washington và gặp Bedell Smith để phản đối hành
động của Patti…(3) Bedell Smith nói: "Này, các ngài đã ngăn cản chúng tôi tiến
hành hoạt động bí mật, táo bạo. Nhưng chúng tôi đã thiết kế chiến dịch này để
chứng tỏ cho các ngài biết rằng điều đó có thể làm được, và các ngài cần mạnh
dạn hơn trong việc tiến vào khu vực của Việt Minh chứ không phải chỉ nhằm bảo vệ
các khu vực thuộc địa cũ của mình…". Sau đó, tôi tìm thấy một bị vong lục do tôi
viết cho cấp trên của ông ta, trong đó nói rằng chúng tôi rnuốn tiến hành hoạt
động này để tạo điều kiện cho người sĩ quan trên có làm nổ được cái cầu đó hay
không? Điều đó giúp ngài hiểu rõ thêm vấn đề và gửi thông báo cho Pháp biết là
có thể tiến hành chiến dịch theo kiểu này.
Khi nói về cơ quan tình báo cộng sản
Việt Minh người cựu sĩ quan tặc lưỡi: “tôi đối chọi với Pháp, chứ không phải với
Việt Minh".
Rõ ràng ông ta đã không biết rằng:
ít nhất là đã có một sĩ quan tình báo chuyên nghiệp của Việt Minh theo dõi rất
sát hai nhân viên mà ông ta vừa mới tuyển mộ. Theo như thông báo thì người sĩ
quan Việt Minh này là trùm tình báo của tổ chức Việt Minh ở tỉnh Thái Bình. Điệp
viên nằm vùng này đã chiếm được lòng tin của hai Tổng giám mục ở địa phận Bùi
Chu-Phát Diệm với cái vỏ bọc của một con chiên rất ngoan đạo. Sau đó điệp viên
này đã đi theo dòng người di cư vào Nam Việt Nam và trở thành người lãnh đạo các
hoạt động của lực lượng tự vệ của Tổng giám mục.
Khi người sĩ quan Mỹ tới các mục
tiêu bán quân sự của mình ở đồng bằng sông Hồng phía ngoại vi Hà Nội thì người
thanh niên trẻ 20 tuổi là Lê Văn Bưởi một giáo dân ngoan đạo từ miền Đông bắc
Bắc Việt đã tham gia quân đội quốc gia do Pháp chỉ huy. Sau một năm đào tạo ở
trường sĩ quan Thủ Đức anh ta mang lon thiếu uý làm việc trong cơ quan tình báo
do thiếu tá Biler chỉ huy. Biler là tư lệnh trưởng của Pháp ở Quảng Yên-quê
hương của Bưởi. Theo Bưởi kể thì: "Pháp tin tưởng vào những giáo dân trung
thành. Họ là tai mắt để theo dõi cộng đồng người Việt. Khi Điện Biên Phủ thất
bại, tôi là một trong những người được chọn để đào tạo ở Pháp. Mục tiêu là xây
dựng một nhóm gồm những giáo dân Việt Nam ở lại trong lòng Bắc Việt sau khi Pháp
rút vào 1955. Vì nhiều nguyên nhân tôi chẳng bao giờ sang Pháp cả.
Theo hiệp định Giơnevơ (năm 1954),
trung uý Bưởi thuộc lực lượng quân đội quốc gia Việt Nam rút về Nam Việt Nam.
Những điệp viên mà anh ta chẳng bao giờ biết đến đã ở lại Quảng Yên và các khu
vực khác tại miền Bắc .
Sự đầu hàng của Pháp ở Điện Biên Phủ
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ký hiệp định Giơnevơ 1954, chia cắt đất
nước Việt Nam thành hai phần ở vĩ tuyến 17. Hiệp định này cuối cùng đã tạo ra
hai Nhà nước ở Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc (VNDCCH) và Cộng
hoà Việt Nam (CHVN) ở miền Nam. Một dải đất hẹp phân cách hai bên ở vĩ tuyến 17
gọi là khu phi quân sự (KPQS). Sông Bến Hải chảy từ Tây sang Đông cắt ngang phần
lớn khu vực này. Nó là sự chia cắt tạm thời và sẽ được giải quyết thông qua Tổng
tuyển cử thống nhất đất nước vào 1956.
Trong vòng một tháng sau khi ký hiệp
định cùng với việc Pháp có kế hoạch rút khỏi Bắc Việt trong vòng 300 ngày, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định Mỹ là kẻ thù trong một cuộc họp của Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam: "Mỹ không chỉ là kẻ thù của nhân dân Thế giới, mà Mỹ còn
là kẻ thù chủ yếu của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào".
Dưới sự lãnh đạo của Allen Dulles
giám đốc cục tình báo trung ương Mỹ (CIA), đại tá không quân Mỹ Edward Lansdale
đã đến Việt Nam sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhiệm vụ của ông ta là
phát động các chiến dịch bán quân sự tổ chức đội quân ngầm ở phía Bắc trước khi
Cộng sản nắm quyền. Sau đó, ông ta sẽ tiếp tục giúp đỡ để dựng Ngô Đình Diệm-một
người theo đạo thiên chúa làm Tổng thống Nam Việt Nam, thay thế vua Bảo
Đại.
Các điệp viên Việt Nam đã được cử
đến căn cứ huấn luyện điệp viên của CIA tại đảo Saipan (thuộc quần đảo Mariana ở
Thái Bình Dương).
Năm 1955, Hải quân Mỹ đã giúp các
điệp viên này ém sẵn ở cảng Hải Phòng (Bắc Việt) với mục đích nằm chờ cho đến
khi được lệnh hành động. Vũ khí, điện đài và vàng của họ được giấu ở những khu
vực mà cơ quan tình báo Cộng sản Việt Nam khó phát hiện được. Khi Việt Minh
chuẩn bị tiếp quản Bắc Việt theo các điều khoản hiệp định Giơnevơ thì Nhà thờ
thiên chúa giáo đã chỉ đạo cho những giáo dân trung thành của mình di cư vào
Nam.
Phạm Xuân Ẩn, một người Việt Nam còn
trẻ đã liên lạc với đại tá Lansdale và các nhân viên của ông ta.
Cùng tham gia lực lượng của Lansdale
bên cạnh Phái bộ quân sự Sài Gòn (SMM) và tham gia một cách rất tin cẩn vào việc
cài cắm các lực lượng bán quân sự Việt Nam nằm vùng được huấn luyện ở đảo Saipan
là một cựu chiến binh lành nghề và là một điệp viên trá hình-thiếu tá lục quân
Mỹ Lucien Conein. Nhóm của Lansdale có thể không biết Phạm Xuân Ẩn là một sĩ
quan tình báo Cộng sản đã hàng chục năm nay chuyên quan tâm tới các hoạt động
của Lansdale.
Đại tá Lansdale khá nổi tiếng đối
với cơ quan tình báo Bắc Việt, ông ta vừa mới hoàn thành một loạt phi vụ thắng
lợi được đánh giá cao trong việc chống phiến loạn Cộng sản ở Philipin. Conein
cũng nổi tiếng tương tự trong các hoạt động của mình với tư cách là điệp viên
trá hình dưới quyền Patti và các cơ quan tình báo phía Bắc thường xuyên giám sát
các chuyến bay Sài Gòn-Hà Nội.
Khi Pháp rút khỏi miền Bắc thì họ đã
cài lại một mạng lưới điệp viên rộng lớn mà đa phần là giáo dân Việt Nam. Các hồ
sơ của những điệp viên nằm vùng này được chuyển về Paris ngay khi Pháp hoàn
thành việc rút quân năm 1955. Sau đó một số hồ sơ này được chuyển giao cho Ngô
Đình Nhu, em ruột Ngô Đình Diệm.
Các điệp viên khác của CIA thuộc
đảng Đại Việt và VNQDĐ được chuyển lại miền Bắc trước khi Pháp rút khỏi Việt
Nam. Lucien Conein đã kể lại chiến dịch cài cắm người như sau.
“…Tôi nhớ là có khoảng 20 điệp viên
bán quân sự nằm vùng ở miền Bắc . Chúng tôi chọn họ và gửi đi đào tạo ở
Philipin. Phần lớn bọn họ thuộc Đảng Đại Việt, một số thuộc VNQDĐ. Sau khi huấn
luyện chúng tôi chở họ đến Okinawa. CIA bố trí cho họ quay trở lại miền Bắc bằng
tàu thuỷ, vì chúng tôi không có khả năng đưa họ ra Bắc từ Philipin. Những gì mà
tôi làm ở Philipin cho đại tá Ed.Lansdale không dính dáng gì tới những gì mà CIA
làm ở Saipan.
Để giúp đỡ các điệp viên của chúng
tôi, khi họ trở về tôi đã thiết lập những nơi tàng trữ vàng, điện đài, vũ khí và
các vật dụng khác. Các điệp viên được bố trí rải rác khắp nơi chứ không tập
trung ở một điểm cụ thể nào. Họ được lệnh nằm im chờ khi có lệnh mới hành động.
Tôi không nhớ rõ có một điệp viên nào đào tạo ở Philipin được triệu về miền Nam
năm 1956 để xem có ai bị bắt và bị khống chế rồi chống lại chúng tôi
không.
Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục cử các
điệp viên ra miền Bắc cho đến cuối năm 1956. Phần lớn họ đều xuất phát từ Huế
và… rất ít người quay trở lại.
Một số điệp viên nằm vùng đã có lúc
liên lạc được bằng điện đài từ miền Bắc, nhưng sau đó đột nhiên tất cả đều im
bặt.
Dường như tất cả đều đổ vỡ. Lúc đó
là năm 1956. Hiển nhiên là các điệp viên của chúng tôi đã bị bắt, nhưng tôi
chẳng bao giờ biết rõ là ai đã khai báo hay đầu hàng.
Bây giờ thì tôi biết rằng, lực lượng
an ninh Bắc Việt đã liên tục theo dõi giám sát chặt những chuyến bay của tôi từ
Sài Gòn ra Hà Nội. Nhưng việc ấy chẳng đủ để giải thích được những gì đã xảy ra.
Điều đó cũng không thể dẫn tới việc cơ quan phản gián Bắc Việt có thể lần ra các
điệp viên và các nơi cất giấu vũ khí, vật dụng của chúng tôi. Không phải vậy mà
chắc chắn phải có một điều gì nguy hiểm hơn thế. Có lẽ là họ đã nắm trong tay
toàn bộ mạng lưới và tổ chức quét một mẻ quyết định vào cùng thời
điểm.”
----------
(3). Chỗ này bản dịch không rõ ý.
__________________
Gilbert Layton một trong những cựu
chuyên gia biệt kích của CIA đã đánh giá lại giai đoạn này như sau:
“…Nhận lệnh từ Châu Âu đến Sài Gòn
vào đầu năm 1960 tôi đã được thừa hưởng một hoặc hai két sắt trong đó chứa rất
nhiều tài liệu của Ed. Lansdale bao gồm các báo cáo về những kho vàng bí mật từ
những năm 1955 mà nhân viên của ông đã bí mật đưa ra miền Bắc. Tôi không rõ đã
có ai biết sau Lansdale và trước cả tôi không. Những báo cáo cho thấy các kho
tàng trữ của Lansdale đã chôn giấu rất nhiều vàng, một số thì dưới móng nhà,
trong những hố xi măng, một số được phủ băng một lượng xi măng dày từ 0,3 - 0,6
mét. Một số người ở Tổng hành dinh muốn chúng tôi cử ra một nhóm để tìm kiếm số
vàng này. Theo tôi nhớ thì số vàng đó trị giá khoảng 700.000 USD vào năm 1960.
Cuối cùng thì họ đã từ bỏ ý định đó.
Các điệp viên nằm vùng đã được đào
tạo ở căn cứ Saipan. Đây cũng là nơi chúng tôi dung để huấn luyện cho người
Trung Quốc. Tôi nhớ người Việt Nam cuối cùng được đào tạo ở Saipan là một ông
già nhỏ bé. Sau đó được đưa ra miền Bắc và ông ta đã mở một xưởng sản xuất pháo.
Khốn nỗi là một lần xưởng đó bị nổ tung và ông ta đã bị chết.”
Khi Lansdale thực thi nhiệm vụ của
mình ở Sài Gòn trong những năm 1955-1956 thì Tổng thống Diệm đã củng cố được
quyền lực của mình ở Việt Nam Cộng hoà để chống lại các lực lượng đối lập rất
rộng lớn bao gồm các giáo phái, tội phạm hình sự và Cộng sản nằm vùng. Đảng Lao
động Việt Nam cũng hoạt động rất tích cực ở đó. Các đường lối đưa từ Bộ Chính
trị ở Bắc Việt vào cho Lê Duẩn là đại diện ở miền Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ định đã định hướng cho phong trào Cộng sản sau khi Pháp rút vào năm
1955.
Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định
rằng không nhất thiết tất cả mọi người phải tập kết ra Bắc theo Hiệp định
Giơnevơ. Những cán bộ trung thành của Đảng được lệnh ở lại hoạt động bí mật. Rất
nhiều tổ chức quần chúng Việt Minh trước kia xuống đường ủng hộ phong trào Cộng
sản trong những năm chiến tranh đã bị giải tán trên giấy tờ nay nổi dậy hoạt
động dưới hình thức các nhóm chính trị đối lập với Diệm. Những vũ khí trước kia
sử dụng để chống lại Pháp nay được cất giấu để phục vụ cho cuộc đấu tranh vũ
trang chống lại chính quyền Diệm. Người nằm vùng đã tổ chức thành các tổ, hoặc
đơn vị vũ trang cấp tiểu đội, trung đội. Rất nhiều đơn vị tự xưng là tiểu đoàn,
mặc dù con số của họ không quá 40 người. Tên của các đơn vị này thường được gắn
với tên của các tổ chức phi Cộng sản đối địch với Diệm như Cao Đài, Bình Xuyên,
Hoà Hảo.
George Carve là một sĩ quan CIA ở
Sài Gòn cho đến năm 1960 và là một chuyên gia phân tích tình báo cao cấp của CIA
về các vấn đề Việt Nam. Đối với chiến tranh Việt Nam lần thứ hai ông ta đã đưa
ra dự đoán của mình về những thách thức trong giai đoạn này:
“…Người ta rất lo lắng về hiệu ứng
Domino và nếu những người Cộng sản Việt Nam chiếm toàn bộ đất nước thì họ sẽ
nhanh chóng gây áp lực đối với Lào và Campuchia và cả đối với Thái Lan nữa. Điều
này đối với các nhà lịch sử theo trường phái xét lại hiện nay thì rất buồn cười,
nhưng thời đó lại chẳng buồn cười chút nào. Còn những người được hưởng phần lợi
trong đó thì chắc sẽ chẳng bao giờ coi nó là buồn cười cả, vì tôi đã nghe những
người Singapo, Thái Lan và một số nơi khác nói rằng: Những thành tựu về mặt
chính trị cũng như kinh tế trong các nước còn lại ở Đông Nam Á sẽ không thể nào
phát triển được nếu chúng ta không khống chế nổi những người Cộng sản Việt
Nam.”
Có một sự mong muốn lớn trong giai
đoạn sau hiệp định Giơnevơ là không để cho quyền lực của Cộng sản phát triển
bằng vũ lực ở miền Nam Việt Nam.
Các điều khoản trong hiệp định về
tuyển cử đã được nhất trí, ngoại trừ một rắc rối là việc Pierre Mendes, Thủ
tướng Pháp không chấp nhận công bố thời hạn cuối cùng của giải pháp, đó là việc
quyết định chọn vĩ tuyến 17 chứ không phải vĩ tuyến 16 mà lẽ ra phải như
vậy.
Lúc này, miền Bắc có lợi thế số dân
lớn hơn miền Nam khoảng 2.000.000 người trước khi cuộc bỏ phiếu lần đầu được
tiến hành. Như vậy, mặc nhiên họ sẽ giành được 99.9% số phiếu.
Cũng do Diệm không muốn bị tự sát về
chính trị nên đã tiến hành những biện pháp cứng rắn hữu hiệu của
mình.
Diệm đã đạt được những kết quả nhất
định trong việc thanh trừng những người Cộng sản nằm vùng. Nhất là những thành
viên của bộ máy lãnh đạo Đảng Lao động phụ trách phía Nam Việt Nam thuộc Xứ uỷ
Nam Kỳ đã lặng lẽ rút khỏi miền Nam vào năm 1956, đến một cơ sở an toàn hơn ở
Nông Pênh-Campuchia. Ở đó, họ có thể đi lại một cách an toàn bằng máy bay giữa
Nông Pênh và Hà Nội. Một số cán bộ Đảng ở miền Trung cũng bắt đầu rút ra miền
Bắc bằng cách vượt sông Bến Hải hoặc đi qua Lào. Người lãnh đạo bộ phận phía Nam
của Đảng-Lê Duẩn đã phải đối đầu với một cuộc đấu tranh chính trị kéo dài với
Diệm và không đạt kết quả.
Việc ủng hộ của Mỹ đối với Diệm đòi
hỏi phải có sự hiểu biết chính xác về sự đe dọa thực sự của Cộng sản để đưa ra
một kế hoạch toàn diện và chặt chẽ nhằm giúp đỡ Việt Nam, bao gồm cả việc giúp
đỡ về mặt quân sự do Washington đầu tư thông qua chương trình an ninh và tương
trợ lẫn nhau (MASP). Xuất hiện các quan điểm khác nhau liên quan đến bản chất
cũng như mức độ của mối đe doạ chưa kể đến trình độ và phẩm chất lãnh đạo của
Diệm.
Một tổ chức thông tin tình báo về
các lực lượng đối lập với Diệm đã được thành lập do tổ chức tình báo ngầm của
Diệm hoạt động ngoài dinh Tổng thống. Tổ chức này do bác sĩ Trần Kim Tuyến ở Huế
phụ trách và chủ yếu dựa vào lực lượng giáo dân để tiến hành các hoạt động gián
điệp cho Diệm. Một phần khác của lực lượng an ninh thuộc cơ quan an ninh của
Diệm là lực lượng hoạt động bí mật cũng do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách mang
tên Sở liên lạc do đại tá Lê Quang Tung phụ trách hoạt động dưới sự chỉ huy trực
tiếp của Tổng thống Diệm. Tổ chức của bác sĩ Tuyến có thể cầu viện sự giúp đỡ
của công giáo trung thành ở cả trong và ngoài chính phủ. Lực lượng của bác sĩ
Tuyến tiến hành các hoạt động bí mật và thu thập các thông tin tình báo. Ngoài
ra, tổ chức đó còn cài cắm những người có trình độ và năng lực mà bác sĩ Tuyến
thấy cần cho các hoạt động tình báo được tiến hành trong toàn bộ Nam Việt Nam và
ở một số nước láng giềng.
Bác sĩ Tuyến đã bố trí các nhân viên
của mình liên minh với một Đảng chính trị bí mật mới thành lập là Đảng Cần lao
Nhân vị do Tổng thống Diệm chỉ đạo.
Một trong những người em của Diệm là
Ngô Đình Cẩn đã chỉ huy tổ chức tình báo riêng của mình và trực tiếp lãnh đạo
Đảng bí mật thực hiện các hoạt động tình báo của giáo dân ở Huế, nơi mà ông ta
có nhiệm vụ làm cố vấn cho Diệm đối với khu vực miền Trung Việt Nam. Vì sự chia
cắt về mặt không gian giữa hai anh em, nên bác sĩ Tuyến báo cáo cho Tổng thống
của mình qua Ngô Đình Nhu. Sự gần gũi về mặt không gian giữa Nhu và Diệm đã tạo
nên một sự đối địch tất nhiên giữa ông ta với Cẩn. Một sự cạnh tranh không phải
là không lường trước được đối với quyền lực và sự quan tâm.
Thành viên và mạng lưới thành viên
Đảng Cần lao đã nhanh chóng trở thành phương tiện để những người ủng hộ trung
thành với Diệm nhận được những hợp đồng béo bở của chính phủ và các lợi ích tài
chính trực tiếp khác do đã thể hiện sự trung thành ủng hộ Diệm. Vào cuối những
năm 50, điều này dẫn đến những lời buộc tội rằng: sự viện trợ của Mỹ cho Việt
Nam Cộng Hoà chủ yếu rơi vào túi của những thành viên Đảng Cần lao.
Những nhu cầu của cộng đồng tình báo
Mỹ đã được đáp ứng bởi một loạt các nhân viên tình báo quân sự và dân sự làm
nhiệm vụ thành lập và xử lý thông tin đã cung cấp được những thông tin tình báo
cần thiết. Cựu trùm tình báo CIA ở Việt Nam, William Colbly đã kể lại những
nguyên tắc hoạt động với những người Nam Việt Nam như sau:
“…Ngô Đình Cẩn chỉ huy lực lượng độc
lập của mình ở Huế. Đấy là vấn đề kinh doanh của ông ta. Vì vậy, nếu bạn cần làm
việc ở Huế thì phải bàn với ông Cẩn. Còn nếu bạn muốn làm ở khu vực còn lại của
Nam Việt Nam thì phải bàn với ông Nhu. Có một số sự cạnh tranh tự nhiên giữa các
nhân viên của hai phía. Diệm thì có ý kiến rất tốt với Cẩn. Cẩn có một số ý
tưởng rất xuất sắc.
Đối với CIA thì kênh chỉ huy là
người Việt Nam thông qua Tuyến và Lê Quang Tung.
Chúng tôi có những quan chức chính
phủ giúp đỡ, nhưng họ vẫn là những người quyết định chủ yếu còn chúng tôi chỉ
đóng vai trò cố vấn, xem xét các vấn đề. Một trong những triết lý của tôi là
luôn luôn coi họ là những người chỉ huy. Không nên có ý định giành mất quyền của
họ, bởi vì điều đó sẽ làm họ có mặc cảm bị lãnh đạo tạo ra những phản ứng ngầm
bất lợi.
Tôi chưa hề gặp Ngô Đình Cẩn. Thực
tế thì ông ta không bao giờ đến các cuộc họp. Trên lý thuyết, tôi làm việc với
ông ta trong nhiều năm và một số nhân viên của tôi cũng thế, nhưng họ không bao
giờ gặp ông ấy cả. Tôi nghĩ rằng tôi là người duy nhất thích ông Nhu. Đại tá
Tung là con người tế nhị nhất mà tôi gặp từ trước tới nay.
Trong Sở Liên lạc của bác sĩ Tuyến
có phòng 45 do đại uý Ngô Thế Linh, một sĩ quan quân đội hoạt động dưới cái tên
"ông Bình", phụ trách. Đại uý Linh chịu trách nhiệm về các hoạt động bí mật
chống Bắc Việt Nam và các hoạt động ở các nước láng giềng Lào Campuchia. Khi cần
có điệp viên. họ liên lạc với những Giám mục có thế lực của Công giáo để tìm
những người cần thiết, rồi giới thiệu cho các nhân viên của bác sĩ Tuyến. Những
người tỏ ra có khả năng thì được tuyển dụng. Đối với những yêu cầu về con người
và kỹ năng quân sự thì đại tá Tung chịu trách nhiệm về bộ máy quân sự của Việt
Nam Cộng Hoà. Đại uý Lê Quang Triều-em của đại tá Tung phụ trách Văn phòng hành
chính của Sở Liên lạc dưới hình thức chỉ huy một đại đội trong đơn vị phòng vệ
Phủ Tổng thống mà các điệp viên tương lai thường được cử vào đó để che giấu
những hoạt động bí mật của mình.
Năm 1956, Sở Liên lạc yêu cầu cung
cấp các thuyền gỗ để đưa các điệp viên và vật tư ra Bắc, cũng như từ Bắc trở
vào. Cuối năm đó, một nhóm 6 người Việt Nam phần lớn độ tuổi 20, tất cả đều sinh
ra ở tỉnh Quảng Bình-phía Bắc khu phi quân sự, đã được tuyển từ nhà thờ công
giáo ở cảng Nha Trang để tham gia lực lượng Hải quân mới này. Cuối cùng, lực
lượng Sở phòng vệ Duyên hải là lực lượng hải quân bí mật được bố trí trà trộn
trên những chiếc thuyền mà các ngư dân miền Bắc của họ thường sử dụng và hình
như lực lượng an ninh Bắc Việt không phát hiện ra điều này.
Sự giúp đỡ của CIA và Lầu Năm góc
đối với các hoạt động ra phía Bắc của Sở Liên lạc được tiến hành thông qua Liên
đội quan sát số 1. Một đơn vị quân sự do đại tá Tung chỉ huy, được xây dựng vào
1956 với sự giúp dỡ của CIA. Nó có nhiệm vụ xây dựng lực lượng nằm vùng trong
trường hợp miền Nam Việt Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Bộ máy quân sự được cử đến
Liên đội 1 với mục đích hành chính nhưng thực tế lại tiến hành các hoạt động
tình báo do Sở liên lạc chỉ đạo. Thậm chí cuối năm 1958, đơn vị vẫn còn phải
giấu các vũ khí và lực lượng nằm vùng chủ yếu vẫn là trên giấy tờ, chứ không
phải trên thực tế.
Một nguồn tin tình báo khác của
Washington là tổ chức việc mã thám các liên lạc vô tuyến của Hà Nội, nguồn thông
tin mà độ tin cậy được xác nhận là cao nhất. Việc thu các liên lạc vô tuyến của
miền Bắc từ năm 1955 chủ yếu là dựa trên một bộ phận mã thám của Pháp được triển
khai ở Nam Việt Nam trước đó với 5 đội dã chiến dàn trải trên lãnh thổ Việt Nam
và Lào để do thám thông tin đối phương trong và sau khi cộng sản rút ra miền Bắc
năm 1955. Với sự giúp đỡ của Mỹ, nhóm công tác của Pháp ở lại trong khi các lực
lượng khác của Pháp rút khỏi Nam Việt Nam vào năm 1956. Pháp đã chia sẻ kết quả
các hoạt động mã thám của họ với Mỹ để đổi lấy thông tin của Mỹ về các máy phát
vô tuyến của Bắc Việt, thông qua các thiết bị dò thông tin vô tuyến của Mỹ. Đến
giữa năm 1957 thì nhóm hoạt động của Pháp rút.
Kết quả của thông tin tình báo nhận
được khẳng định: Các máy phát vô tuyến Cộng sản vẫn hoạt động ở miền Nam và liên
lạc trực tiếp với Hà Nội. Điều này thể hiện rõ ràng rằng: Các lực lượng Cộng sản
Việt Nam chưa rút hết khỏi Nam Việt Nam và lực lượng bí mật của Cộng sản vẫn
tiếp tục tồn tại. Chẳng hạn như các thông tin vô tuyến từ Hà Nội năm 1958 xác
nhận hai cơ quan đầu não ở Nam Việt Nam. Một ở phía Tây Đà Nẵng đối với Cộng sản
Liên khu 5 phụ trách miền Trung Việt Nam, và một cơ quan đầu não khác phụ trách
đồng bằng phía Nam, nằm ở phía Tây Sài Gòn, gần biên giới Campuchia. Trạm Tây Đà
Nẵng giữ liên lạc liên tục với các đơn vị bằng cách xâm nhập gián tiếp từ Bắc
vào Nam. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cam kết ủng hộ cách mạng miền Nam nhưng
nhu cầu bức bách hơn đối với miền Bắc là củng cố sự kiểm soát của mình và bắt
đầu quá trình quản lý một Nhà nước mới giành được. Tuy nhiên đó cũng là thời kỳ
mà giới lãnh đạo ở miền Nam, bao gồm Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo cao cấp khác
như Nguyễn Văn Linh-phụ trách đồng bằng Nam BỘ và Võ Chí Công-phụ trách vùng bờ
biển dân cư thưa thớt ở miền Trung Việt Nam, cần sự giúp đỡ hơn là những lời nói
chính trị mĩ miều.
Ba người này, cũng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh lúc đó, biết quá rõ về những thành công của Tổng thống Diệm bởi vì vào
thời kỳ 1958 tổ chức Đảng Cộng sản ở miền Nam bị tan rã. Từ một lực lượng (theo
như báo cáo) có khoảng 60 nghìn đảng viên ở khu vực đồng bằng đông dân cư năm
1954, đã giảm xuống còn khoảng 5 nghìn. Tệ hại hơn là 70% các tổ chức Đảng cơ sở
từ cấp huyện trở lên ở miền Trung đã bị phá vỡ. Vấn đề nan giải ở đây là có quá
nhiều người lãnh đạo chính trị và quá ít quần chúng.
Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo khác ở
miền Nam nắm rất rõ chính sách của miền Bắc trong ba năm đầu sau khi chia cắt
đất nước. Nhưng khi mà tổ chức Đảng ở miền Nam bị tan rã, cần phải có một sự
thay đổi cơ bản về mức độ ủng hộ cách mạng miền Nam nếu Bộ Chính trị của Hà Nội
muốn giữ vững niềm tin trong dân chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng. Vấn đề mà
Đảng cần lúc đó là một giải pháp truyền thống giống như các giải pháp khác đã
huy động được người dân Việt Nam trong quá khứ. Đó là: một lực lượng quân sự
nước ngoài hiện diện ở Việt Nam có thể coi như là sự xâm lược.
Năm 1958, Lê Dụẩn được gọi về giữ
cương vị xứng đáng trong hoạt động thường ngày của Bộ Chính trị Đảng Lao động và
lúc này ông ta đã có thể vạch rõ sự thất bại ở miền Nam. Trong khi thực hiện lời
kêu gọi của Đảng tiến hành đấu tranh chính trị đúng vào thời kỳ mà tổ chức Đảng
ở miền Nam đang bị thoái trào. Ông ta khẳng định rằng năm 1956 ông đã không nhận
được chỉ thị gì của Hà Nội về việc phát động lại phong trào đấu tranh vũ
trang.
Chủ tịch HỒ Chí Minh và các nhà lãnh
đạo khác đã coi Mỹ là kẻ thù chính. Nhưng vào cuối những năm 1950 còn có quá ít
người Mỹ ở Nam Việt Nam để chứng tỏ rằng Mỹ xâm lược Việt Nam. Một điều may mắn
đối với Hà Nội là lúc đó bắt đầu kỷ nguyên giải phóng dân tộc nên Hà Nội gặt hái
được sự giúp đỡ của nước ngoài. Với Lê Duẩn đứng sau, Bộ Chính trị đã được
thuyết phục rằng đây là thời cơ để tiếp tục kêu gọi đấu tranh cho quan điểm của
Đảng về một nước Việt Nam Cộng sản thống nhất.
Tại thời điểm này, Đảng gặp phải một
hạn chế lớn trong nỗ lực nhằm phát động lại cuộc cách mạng đã bị đình trệ ở miền
Nam. Đảng có cách nhìn và lực lượng nhưng thiếu vũ khí và vật tư cần thiết để
xây dựng, phát triển và giữ được xung đột dưới một trạng thái chính quy chứ
không phải là những xung đột lẻ tẻ chống lại chính quyền Diệm. Đảng cũng vấp
phải một thực tế là sự đàn áp mạnh mẽ năm 1956 và những sai lầm trong quá trình
thực hiện công cuộc cải cách ruộng đất.
Tuy nhiên, tháng 11 năm 1958, theo
báo cáo cho biết thì một chỉ thị được chuyển từ Hà Nội với nội dung là phải
"chuyển từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang". Chỉ thị này thực tế là
bản sao trước của quyết định chính thức sẽ được Bộ Chính trị biểu quyết vào
tháng 1 năm 1959 và sẽ được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc vào cuối năm
1960.
Trong khi các chỉ thị được chuyển
vào Nam thì cơ quan tình báo Bắc Việt chuẩn bị một điệp viên khác để phái vào
Nam vời nhiệm vụ bí mật có tầm quan trọng không kém. Điệp viên này trong hồ sơ
hoạt động của cơ quan tình báo Mỹ được biết dưới mật danh ARES, ARES đến miền
Nam vào đúng thời điểm Colby, một sĩ quan CIA đóng ở Roma và là một cựu chiến
binh OSS của chiến tranh thế giới lần thứ II cũng đến miền Nam.
ARES và Colby với những nguyên nhân
hoàn toàn khác nhau, đã đóng vai trò trong nấc thang chiến tranh này.
------o0o------
(Hết mục 1).
2.NHỮNG ĐIỀU NAN GIẢI.
Tháng 8 năm 1958, Tổng thống Diệm
lại một lần nữa yêu cầu sự giúp đỡ của Mỹ để tiến hành các hoạt động bí mật
chống lại những người cộng sản Việt Nam. Những cuộc hội đàm của ông ta với cơ
quan tình báo Mỹ xảy ra đúng vào lúc mà các tùy viên quân sự Mỹ ở Sài Gòn yêu
cầu phải có sự can thiệp của chuyên gia tình báo trong các chiến dịch phối hợp
với chính quyền Diệm. Điều này trùng hợp với yêu cầu của Diệm là mong muốn
Washington giúp đỡ về mật mã. Ông ta đã nhận được sự giúp đỡ đó của CIA, nhưng ở
các lĩnh vực khác thì chưa có gì.
Suy nghĩ của Mỹ tại thời điểm đó là
mặc dù các đề nghị phối hợp hoạt động bí mật tuy đã được đặt ra nhưng đây là lúc
thích hợp có thể áp dụng đối với Bắc Việt Nam. Điều này dẫn tới sự nhất trí về
nguyên tắc đối với CIA và chính quyền Diệm là tiến hành các hoạt động tình báo
chung chống lại Bắc Việt vào năm 1958. Trạm CIA ở Sài Gòn đã trở thành quan hệ
chính thức từ 1-1-1959, một tháng trước khi Colby đến Sài Gòn.
Colby đã kể lại một cách rất rõ ràng
giai đoạn này: “… Khi tôi đến đó thì đang thực hiện quyết định từ năm 1956 là
ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm chứ không có tuyển cử và biến Nam Việt Nam thành
một nước độc lập nên chúng tôi làm việc đó tương đối thuận lợi. Chương trình
viện trợ được tiến hành một cách trôi chảy. Diệm không phải là người ưa chuộng
dân chủ về lâu dài nên đã tổ chức đàn áp tương đối thành công những người cộng
sản ở Nam Việt Nam. Họ đã chuyển các cán bộ của mình ra Bắc để đào tạo một cách
lặng lẽ. Giờ đây thì họ đã thú nhận nguyên nhân thành lập đoàn vận tải 559. Đoàn
đã xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh nên gọi là đoàn 559 bởi vì nó bắt đầu vào
tháng 5-1959. Đây là thời điểm mà họ quyết định phát động cuộc chiến tranh và
tiến hành khử một vài xã trưởng ác ôn hoặc làm những việc tương tự như tổ chức
lực lượng trong dân chúng, xây dựng mạng lưới linh hoạt đợi thời điểm thích hợp
thì sẽ hành động.
Phản ứng của chính phủ chúng ta lúc
đó có vẻ như là tăng cường vũ lực và tiếp đó là sự phân biệt quan điểm giữa Bộ
Ngoại giao và BỘ Quốc phòng: có nghĩa là chúng ta có cần phải xây dựng một lực
lượng quân sự mạnh như Bộ Quốc phòng hay theo quan điểm của Bộ Ngoại giao là mở
rộng dân chủ. Mâu thuẫn này là tất yếu vì cả hai bên đều xuất phát từ những chỗ
đứng khác nhau. Phái quân sự cho rằng muốn đối chọi với chiến tranh thì tốt hơn
hết là phải xây dựng lực lượng của mình, còn viên chức Bộ Ngoại giao thì cho
rằng chúng ta không thể huy động sự ủng hộ của toàn quốc nếu như không thực thi
dân chủ. Điều mà tôi cho là chưa phải là tiên quyết và chưa có sức thuyết phục,
nhưng đấy lại là quan điểm của Sài Gòn. Tất nhiên tiếp theo là sự lật đổ của
Diệm. Tôi cho rằng đó là một bi kịch và là một sai lầm lớn nhất mà chúng ta mắc
phải.
Thế nhưng trong năm 1959 chúng ta đã
dần dần có định hướng rõ hơn. CIA bị áp lực phải phát triển khả năng tình báo để
biết rõ được kẻ thù đang làm gì. Chúng tôi không có nhiều khả năng độc lập nên
phải bàn bạc với Ban đặc biệt của Việt Nam. Những người của Diệm trong năm 1959,
sử dụng hầu hết thời gian nhằm làm đảo lộn tình hình ở Campuchia và họ đã làm
như vậy. Còn tôi thì đã tốn rất nhiều thời gian để khuyên họ đừng làm
thế.
Đối với một số hoạt động của họ giữ
được độc lập với Mỹ tôi không ngạc nhiên gì. Bởi vì chúng tôi biết hơi bị muộn
đối với Campuchia, chính quyền Sài Gòn sống chết muốn làm một cái gì đó với
Sihanuk (Quốc trưởng của Campuchia) và chúng tôi cũng biết rằng Sihanuk biết rất
rõ những điều đó… Chúng tôi bỏ qua và khuyên nhưng họ chẳng hề mảy may quan tâm
đến lời khuyên của chúng tôi. Họ muốn tự làm điều đó và cuối cùng thì họ phải
gánh chịu thất bại.
Các sỹ quan mà chúng tôi cử làm việc
với người Việt Nam đều ăn mặc đồng phục nhà binh. Một trong số đó là Gilbert
Layton-chỉ huy bộ phận làm việc với lực lượng an ninh biên giới. Tôi cũng có một
sĩ quan khác là Russel Miller trực tiếp phụ trách những hoạt động đối với Bắc
Việt. Chẳng bao lâu một trong những vấn đề được đặt ra tại sao chúng ta không
làm với họ như chúng ta đã làm với Bắc Việt Nam. Chúng tôi nhớ lại kinh nghiệm
trong chiến tranh thế giới thứ 2 đưa người vào bằng cách thả dù hoặc những việc
tương tự đã làm ở đó.
Khoảng một năm sau chúng tôi thiết
lập cơ quan mới gọi là Phủ Đặc uỷ Trung ương tình báo nhằm cung cấp những thông
tin về trung tâm nơi mà chúng tôi có thể tiếp cận với họ. Chúng tôi tổ chức một
cơ quan thẩm vấn chỉ xét hỏi những nhân vật cấp cao bị bắt chứ không phải với
những cán bộ bình thường. Chúng tôi cố gắng đào tạo các nhân viên tác chiến hoặc
các vấn đề tương tự để xem họ tiến hành hoạt động này như thế nào nhưng thành
công chưa nhiều.
Chúng tôi bắt đầu đào tạo lực lượng
không quân cho Việt Nam Cộng hoà để tiến hành các chuyến bay kiểu này. Đại tá
Nguyễn Cao Kỳ là chỉ huy trưởng Không vận, nên ông ta đã đảm nhận việc đó. Chúng
tôi cũng lấy một vài phi công từ hàng không Trung Quốc (CAL) từ Đài Bắc để giúp
đào tạo họ. Chúng tôi thiết lập một bộ phận liên quan ở Việt Nam với cái tên là
Hãng Vận tải hàng không Việt Nam (VIAT) để làm vỏ bọc cho hoạt động đó. Nó được
làm giống như Hãng Vận tải hàng không Trung Quốc-Đài Loan (CAT) chỉ có điều là
nó không trực thuộc Hãng hàng không Mỹ như CAT. Nó là sở hữu của hãng CAL Đài
Loan (China Air Lines). Thật ra tôi muốn có mối quan hệ phong phú hơn đối với
những người Việt Nam thay cho việc chỉ quan hệ với những người CAS2 và Hãng hàng
không Mỹ mà tôi cho là đã được đặt tên giả. Nếu bạn muốn có một công ty tư nhân
để núp dưới đó, thì bạn không nên gọi nó là hãng Hàng không Mỹ.
Tiếp đến chúng tôi đào tạo một vài
lực lượng hải quân mới. Bạn biết rằng cần phải đổ bộ lên bờ biển, rút lui, phá
hoại hoặc tiến hành những việc tương tự. Vì vậy cần phải nghĩ tới việc đưa người
và điện đài vào đất liền để liên lạc.
Tôi không còn nhớ khi chúng tôi tiến
hành chiến dịch đầu tiên vào khi nào, nhưng có thể vào khoảng đầu năm 1961. Kỳ
kiên quyết đòi bay chuyến bay đầu tiên mặc dù như thế là vi phạm nguyên tắc nếu
để ông ta bay. Nhưng ông ta cứ khăng khăng đòi lên máy bay và ra Hà Nội. Ông ta
nói: "Tôi là chỉ huy trưởng. Tôi sẽ bay chuyến đầu tiên".
Liên đội quan sát 1 là lực lượng
quân sự đặc biệt của Mỹ và nhiệm vụ trước tiên của nó là đào tạo cho Không lực
Việt Nam Cộng hòa. Họ đến chính là để làm việc đó. Còn CIA chúng tôi thì chẳng
có liên quan gì tới việc này. Mãi sau này, chúng tôi mới có quan hệ với Liên đội
quan sát 1. Chúng tôi bị bắn rơi một chiếc máy bay vào tháng 7-1961. Chúng tôi
đã giữ liên lạc với họ khi bay vào vùng bờ biển phía Bắc Việt Nam. Miền Bắc đã
công bố vụ xâm nhập này. Chúng tôi đã tìm mọi cách để phủ nhận nhưng sự việc
không đơn giản thế, nếu nói rằng vụ này không dính dáng gì tới chúng tôi thì nó
còn là của ai nữa. Tôi không cho rằng đã xảy ra một vấn đề gì đó quá nghiêm
trọng. Nhưng sự thực thì chúng tôi đã bị người ta bắt vì làm gián điệp ở một đất
nước khác. Tôi không nghĩ rằng có một vấn đề gì đó quá rắc rối về mặt chính
sách, bởi vì chúng tôi đã thống nhất về mặt chính sách với nhóm đặc biệt hỗn
hợp-Ban 5413. Đề nghị đầu tiên của chúng tôi gồm việc triển khai hoạt động ra
phía Bắc và cả phía Nam đã được họ chấp nhận. Lúc đó là tháng 11/1960. Vì vậy,
khi tiến hành công việc chắc chẳng có vấn đề gì trục trặc lớn về khía cạnh chính
sách.
Theo thiếu tá Lê Văn Bưởi lúc đó ở
Huế từ 1959-1961 thì đã có một sự công phẫn trong các sỹ quan Việt Nam vì họ cho
rằng những cố gắng của CIA là nhằm đạt được một thoả hiệp chung là bắt liên lạc
với tất cả các điệp viên trong tổ chức của bác sĩ Tuyến. Bưởi coi vấn đề đó
thiên về mặt kiểm soát hơn là để chia sẻ: "CIA định tiếp quản tất cả các điệp
viên của chúng ta, và liệu chúng ta sẽ định giữ ai?” Họ cứ đòi chúng ta cung cấp
cho họ ngày càng nhiều các điệp viên nằm vùng mà chúng ta đã tiếp nhận từ tay
người Pháp. Liệu Pháp đã đưa cho chúng ta tất cả những gì mà họ đã xây dựng
không? Không, tất nhiên là không. Nhưng cái gì đã có thì chúng ta nhất thiết
không muốn chia sẻ.
William Colby đã không ngạc nhiên:
"Tôi không thể kể chi tiết cho bạn nghe về vấn đề đó, nhưng nó có vẻ
đúng".
Tại Hội nghị lần thứ 15 của Bộ Chính
trị Đảng Lao động tháng 1 năm ấy đã đưa ra quyết định chính thức tăng cường hoạt
động của cộng sản ở miền Nam Việt Nam và đưa cách mạng tiến lên, như vậy là đã
chuyển nó từ một cuộc đấu tranh chủ yếu là về mặt chính trị ban đầu sang đấu
tranh vũ trang bằng các đơn vị vũ trang song song với các hoạt động chính trị
của các tổ chức quần chúng thích hợp. Trong tình huống đó Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ rằng: “…Cuộc đấu tranh ở miền Nam bây giờ sẽ nhằm thu hút mọi lực
lượng của toàn quốc, và được coi như là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc
tế chống lại chủ nghĩa tư bản". Đó cũng là lời kêu gọi xuống đường về mặt chính
trị của Đảng đối với tất cả người dân Việt Nam.
Cũng như tất cả những quyết định
chính thức, nó báo hiệu một sự thống nhất về quan điểm đã được phát động nhiều
tháng trước đó. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thiếu sự ủng hộ rộng rãi và
to lớn về quân sự từ khối cộng sản, mà sự ủng hộ của họ rất quan trọng đối với
các kế hoạch của Bắc Việt. Tháng 5 năm đó theo lệnh của Bộ Chính trị, quân đội
nhân dân đã xây dựng một nhóm nghiên cứu đặc biệt do Vỗ Bẩm, Phó trưởng ban nông
nghiệp phụ trách. VÕ Bẩm có kinh nghiệm ở vùng núi miền Trung Việt Nam. Nhiệm vụ
của ông ta là phát triển một đường dây cung cấp để chuẩn bị hậu cần cho cuộc
chiến tranh sắp xảy ra ở miền Nam mà chủ yếu là tuyến đường ống dẫn dầu từ miền
Bắc vào.
Ngày 19/5/1959, đoàn vận tải quân sự
559 được thiết lập để tiến hành các mục tiêu của Bộ Chính trị thông qua Võ Bẩm,
và như vậy đã tạo ra một bộ khung của cái mà sau này được lịch sử biết đến với
cái tên: Đường mòn Hồ Chí Minh.
Cũng tháng ấy, Bộ Công an đã cử 5
đảng viên cao cấp của mình xâm nhập vào Nam Việt Nam và tăng cường cơ cấu của
các đơn vị an ninh đã có ở đó. Họ mang vào Nam những chỉ thị mới chủ yếu của Bộ
về vai trò của các đơn vị tình báo và an ninh cộng sản. Ngày 14/5/1959, người ta
đã truyền mã Mooc qua đài Hà Nội cho cơ sở miền Nam một cách trung thành quyết
định mới của Đảng: phát động chiến tranh ở miền Nam. Vào cuối 1959, theo báo cáo
thì đoàn 559 đã đưa 542 cán bộ vào Nam Việt Nam, trong đó 515 người có nhiệm vụ
phát triển cơ sở chiến lược ở các khu vực dọc theo biên giới Việt-Lào.
Các vũ khí do phương Tây sản xuất
cũng được chuyển theo đường dây cung cấp mới đến các đơn vị du kích ở miền Trung
Việt Nam. Sư đoàn 338, một trong hai sư đoàn đã ra Bắc năm l954-l955 được đặt
trong tình trạng báo động và những người miền Nam tập kết được thông báo quay
trở về các đơn vị cũ của mình đóng ở Xuân Mai. Mùa hè năm đó, Quân đội Nhân dân
VN đã thiết lập một trạm vô tuyến bí mật gần đèo chiến lược Hải Vân trên quốc lộ
số 1 ở miền Trung Việt Nam. Nhiệm vụ của trạm vô tuyến là phối hợp vận chuyển
những chuyến hàng vũ khí đầu tiên chở bằng đường biển từ một kho dự trữ gần Bến
Thủy và ở cửa sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. Do biển động và thời tiết xấu đã cản
trở hai chuyến hàng đầu tiên không đến mục tiêu theo kế hoạch.
Suốt năm 1959, các mệnh lệnh từ Bộ
Chính trị ở Hà Nội về việc củng cố lại cuộc đấu tranh vũ trang đã tạo được phong
trào nổi dậy lẻ tẻ, rải rác ở khắp miền Nam. Cần phải đàn áp-Diệm trả lời ngay
bằng một sắc lệnh của Nhà nước nhằm lập lại sự bất ổn định mới tái diễn vào mùa
thu năm đó.
Mặc dù cộng đồng người Mỹ ở Sài Gòn
chưa thấy rõ nguyên nhân của việc báo động, nhưng ở Washington và Bộ tư lệnh
Thái Bình Dương ở Hawaii đã có những quyết định dứt khoát để hoàn tất. Ý định
của Washington là tăng cường xung đột ở Việt Nam, Lào đã buộc Hội đồng An ninh
quốc gia (NSC) ra chỉ thị 5809 kêu gọi tăng cường giúp đỡ chính phủ Diệm và ngăn
cản Bắc Việt giành chiến thắng. Ở Honolulu kế hoạch đối phó với khu vực châu Á
là kế hoạch chiến dịch 32-59 do bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đưa ra ngày 16/2/1959
bao gồm cả chính sách của chỉ thị 5809 NSC.
Năm 1960, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương
đã đáp lại sự tăng cường những hoạt động quân sự của Bắc Việt Nam vào Lào bằng
các kế hoạch triển khai các lực lượng viễn chinh của Mỹ vào khu vực đó. Thông
qua các động thái của chiến thuật này, Hà Nội đã thu nhận được một tin tức quan
trọng: Mỹ quyết tâm phản ứng lại bằng sự hiện diện tích cực hơn để bảo vệ những
lợi ích của mình ở Đông Nam Á.
Năm 1960, tài liệu nghiên cứu Quốc
gia do Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cung cấp và được đại diện CIA tại Sài Gòn là
William Colby thông qua cho thấy rằng đường lối Đảng Cần lao của Diệm vẫn có giá
trị trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Một ẩn ý trong quan điểm của Colby
là phản đối lại sự chỉ trích gay gắt về một số việc làm quá đáng của Đảng Cần
lao. Một Đảng mà những thành viên của nó có quan hệ mật thiết và ủng hộ các hoạt
động của CIA chống lại Bắc Việt Nam. Mối liên hệ này của chính người em ông Diệm
đối với CIA đã buộc Mỹ phải gắn với lực lượng cảnh sát quốc gia. Những hành động
quá nặng tay, quá cứng rắn của ông Nhu nhiều khi được coi như là nguyên nhân của
những rắc rối chính trị hơn là một giải pháp hữu hiệu.
Vì Colby muốn giữ mối quan hệ tình
báo của mình với giới cầm quyền tại Việt Nam, nên Gilbert Layton đã đến Sài Gòn
để tham gia vào các nỗ lực của CIA nhằm chuẩn bị cho việc tăng cường các hoạt
động chống cộng sản trong toàn khu vực. Trong vài tháng đầu, Layton không có
nhiệm vụ cụ thể gì. Sau đó, Colby đã gọi ông ta đến để giao nhiệm vụ mới. Layton
đã kể lại việc được giao nhiệm vụ của mình như sau: “…Một buổi, Colby gọi tôi
đến và nói một cách rất trịnh trọng: Này, anh Gilbert, ngoài kia đang xảy ra
chuyện gì đó? Anh hãy tìm hiểu kỹ xem chuyện gì xảy ra, và chúng ta cần phải làm
gì?”
Suốt năm sau, chúng tôi đã tập hợp
được một lực lượng khoảng 36.000 người địa phương, gồm phần lớn là người dân tộc
thiểu số. Có khoảng 36 nhóm lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ đến huấn luyện.
Hiển nhiên là chúng tôi đã đào tạo một số nhóm điệp viên cho Russ Miller, nhưng
lúc đó thì tôi không hay biết việc này, tức là trước lúc trung tâm huấn luyện
Long Thành ra đời. Điều này do Cộng tác viên Việt Nam của tôi lúc đó là đại tá
Lê Quang Tung phụ trách, nhưng tôi chỉ gần gũi với đại uý Trần Văn Minh mà
thôi.
Các cố vấn quân sự Mỹ đến Sài Gòn
chỉ được biết ông ta dưới cái tên là đại tá Gillbert Layton thuộc Ban nghiên cứu
phối hợp (CSD). Layton tặc lưỡi và tiếp tục: “ Khi quân đội Mỹ bắt đầu đến để
đào tạo những người mà chúng tôi đã tuyển mộ thì quân đội của chúng tôi cần được
cử đi đâu đó theo kiểu hành quân quân sự. Vì vậy, chúng tôi đã xây dựng một tổ
chức bình phong. Điều này nghe có vẻ tương đối ổn, và phái quân sự rất thích
thú. Bộ phận đó không trực thuộc đâu cả, nó chỉ cần có một cái tên chính thức
thế thôi. Các hoạt động do tôi chỉ huy được tiến hành bằng các nhóm điều tra bí
mật và các hoạt động gián điệp mà Russ Miller triển khai ra Bắc Việt được gọi là
nhóm điều tra trên không. Tucker Gougelmann ở Đà Nẵng cũng giống như Ed Regan và
Carl Jenkins ở khu vực phía trên. Tất cả đó mới chỉ là một sự đầu tư rất khiêm
tốn.
Sự hiện diện và những hoạt động của
Layton ở Sài Gòn đã phục vụ có hiệu quả cho việc che đậy các cơ quan đầu não bí
mật của CIA, cho những hoạt động gián điệp được triển khai ra miền Bắc của Russ
Miller. Đối với những người đến thăm văn phòng của Lay ton thì Miller và bộ máy
của ông ta chỉ là "những nhân viên bàn giấy".
Ed Regan, một trong những sĩ quan
của văn phòng CIA làm việc cho Russell Miller đã tham gia tích cực vào việc đưa
các nhóm từ Đà Nẵng ra Bắc ngay trong thời kỳ xây dựng đầu tiên theo cách nhìn
của ông ta; công bằng mà nói thì không ai trong chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào
hoạt động này. Tôi biết Gordon Grey (cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống
Eisenhower) đã rời Washington để thanh tra và đánh giá hoạt động, trong chuyến
đi của mình ông ta kết luận rằng: hoạt động này sẽ không thành công.
Trong giai đoạn đầu tiên mối quan hệ
giữa chúng tôi với người của đại tá Tung chủ yếu là phối hợp với các cộng sự
Việt Nam cất giấu vật tư chuẩn bị cho khả năng cộng sản sẽ đánh chiếm miền
Nam.
Tiếp đó cần phải tìm hiểu tình hình
miền Bắc thế nào và chúng tôi chuyển sang các hoạt động gián điệp đơn. Mục tiêu
của chúng tôi là đưa một số gián điệp con thoi để biết rõ tình hình ngoài đó.
Theo tôi nhớ thì đã có khoảng một tá điệp viên kiểu này (trước khi có các nhóm
điệp viên) hoạt động.
Tôi không thể kể hết tất cả những
việc mà cộng sự của tôi đã làm, bởi vì mỗi người trong họ đều làm một cái gì đó
riêng biệt mà chúng ta không thể nào biết được. Chẳng hạn, em của Tổng thống
Diệm ở Huế hình như đã cử một số điệp viên của mình vượt qua Khu phi Quân sự ra
Bắc, vào tỉnh Quảng Bình và chúng tôi không có quan hệ với họ. Bác sĩ Tuyến và
Lê Quang Tung cũng có những hoạt động riêng lẻ của mình, độc lập với Ngô Đình
Cẩn.
Quan hệ của chúng tôi với những
người Nam Việt Nam chỉ là để giúp họ thu thập các thông tin cần thiết cho CIA
hiểu được rõ hơn những điều gì đang xảy ra ở miền Bắc . Chúng tôi đã phải trả
tiền cho các hoạt động này nhưng lại không nắm được quyền kiểm soát vì có những
nhóm cạnh tranh tất yếu trong và ngoài chính quyền Diệm.
Trong khi Russ Miller tổ chức cuộc
họp đầu tiên giữa chúng tôi với Ngô Đình Cẩn vào năm 1960 thì một trong những sĩ
quan khác đã đặt quan hệ với Cẩn và một trong những điệp viên của Cẩn đã được cử
ra Bắc vào mùa hè 1961. Có hai sĩ quan người nhỏ bé thuộc lực lượng hải quân Mỹ
ở Đà Nẵng làm việc cho chúng tôi. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là lo việc dùng thuyền
đổ bộ quân của SEAL (nhóm biệt kích Hải-Lục-Không quân) đối với các hoạt động
đường thuỷ của chúng tôi ra Bắc.
Trong khi Bắc Việt triển khai những
hoạt động của mình vào phía Nam thì CIA ở Sài Gòn triển khai các hoạt động ra
miền Bắc. Cơ quan phản gián của Diệm đã bắt được một mạng lưới gián điệp lớn của
Bắc Việt cài lại ở miền Nam, trong đó có một điệp viên trong Quân lực Việt Nam
Cộng hoà. Anh ta là sỹ quan thông tin quân đội VNCH phụ trách Trung tâm thông
tin của Bộ tổng Tham mưu liên quân (JGS).
Các hệ thống mật mã của Nam Việt Nam
mà anh ta dùng là do tiếp nhận từ những người Pháp, chắc Hà Nội cũng biết rất rõ
điều đó. Nhưng việc bắt anh ta đã cho thấy, những mục tiêu xâm nhập của Bắc Việt
là ở mức độ cao.
Một trong những điệp viên của Hà nội
là Phạm Chuyên từ Đông Bắc của Bắc Việt. Người mà chẳng bao lâu sau được Sài Gòn
và Washington biết đến với cái tên ARES.
Điệp viên ARES? Tôi biết anh ta quá
đi chứ. Tôi đã đọc hồ sơ của anh ta. Anh ta có nhiều tên, nhưng tên thực là Phạm
Chuyên. Chuyên vào Nam năm 1959 và được chúng tôi tuyển mộ để đánh anh ta quay
trở lại Bắc Việt vào tháng 2/1961. Anh ta vẫn giữ liên lạc với chúng tôi ít ra
là cho đến 1969 và tôi không biết rõ anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt
động cho Bắc Việt. Sau khi cộng sản tiếp quản năm 1975 thì những người Bắc Việt
có hỏi tôi về anh ta. Bạn có biết là chúng tôi có thực sự tin anh ta không? Tôi
không nghĩ rằng họ hoàn toàn tin tưởng anh ta.
Một sĩ quan khác, người chưa từng
gặp Chuyên cũng có quan điểm tương tự:
- Chuyên ấy à? Ồ!... Tôi được cử đến
Huế làm phiên dịch, trong khi phỏng vấn anh ta. Tôi nhớ anh ta nhận mình là cháu
của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và bản thân anh ta cũng giữ chức vị cao trong Đảng,
nhưng sau đó vì bất mãn. Anh ta vào Nam năm 1959, được tuyển mộ vào năm 1960.
Kết quả phỏng vấn không đưa đến kết luận gì, mặc dù một số người trong tổ chức
của bác sĩ Tuyến vẫn nghĩ rằng: anh ta là người của Hà Nội được cài vào. Nếu
thực sự anh ta làm việc cho họ thì điều đó cũng chẳng làm cho tôi ngạc nhiên,
bởi vì đấy không phải là trường hợp đầu tiên xảy ra. Tôi sẽ giải thích tại
sao.
Trước đó, chúng tôi bắt được một
nhân viên tình báo cao cấp của Hà Nội. Chúng tôi bắt giữ anh ta và cố gắng lôi
kéo anh ta. Cuối cùng, anh ta đồng ý làm việc cho chúng tôi và được gởi trả lại.
Nhưng sau năm 1975, anh ta xuất hiện với tư cách là một cán bộ phụ trách hải sản
của Việt Nam. Điều đó nói lên rằng: anh ta được tin cẩn và chắc chắn là trá hàng
để điều tra xem chúng tôi làm ăn ra sao, có một tình huống khác xảy ra trước đó,
ngay từ đầu cũng chứng tỏ Hà Nội đã biết chúng tôi là ai và đang làm gì. Điều đó
xảy ra đầu năm 1959, có một chương trình phát thanh của Hà Nội mà Phòng thông
tin phát thanh nước ngoài của CIA hiệu thính từ Sài Gòn. Chương trình này thông
báo một tin khẳng định rằng: Một thuyền xâm nhập đã bị bắt ở tỉnh Hà Tinh cùng
thuyền viên và dụng cụ trên thuyền.
Đài Hà Nội nói rằng: chiếc thuyền đó
thuộc tổ chức của chúng tôi dưới quyền lãnh đạo của bác sĩ Tuyến và đọc một danh
sách những người trong tổ chức lãnh đạo các hoạt động này rất chính xác: Lê
Quang Tung, Trần Khắc Kính, Ngô Thế Linh và những người khác. Một ai đó đã cung
cấp thông tin cho họ rất nhanh và chuyện đó thì mọi người rất khó mà quên
được.
Chương trình phát thanh này nhằm
cảnh cáo chúng tôi, Hà Nội nói với chúng tôi rằng họ biết chúng tôi là ai và
chúng tôi đang làm gì. Thực ra chúng tôi không bị mất cái thuyền nào cả và điều
đó cũng giúp chúng tôi hiểu rõ mục đích của chương trình phát thanh đó. Chúng
tôi chỉ việc chuyển tên của tổ chức này thành "Sở Khai thác địa
hình”.
Lê Văn Bưởi có cách miêu tả kỹ hơn
về một điệp viên do CIA gửi ra Bắc Việt vào tháng 2-1961. Mùa xuân năm 1960, Ngô
Đình Cẩn đến Vũng Tàu để dự một cuộc hội nghi cấp cao (bao gồm các chỉ huy tình
báo) của chúng tôi. Vừa đến ông ta đã thông báo rằng ông vừa gặp Phó Tổng thống
Mỹ (Lyndon B Johnson) và được biết rằng Mỹ quyết tâm phá hoại và sẽ tấn công Bắc
Việt. Đây là sự trao quyền chính thức nhằm tiến hành các hoạt động hỗn hợp liên
quan tới các bộ phận của chúng tôi và của CIA. Sau buổi họp đó Cẩn quyết định
tham gia tích cực vào nỗ lực này bởi ảnh hưởng của Mỹ và sự giúp đỡ đối với Tổng
thống của chúng tôi bắt nguồn từ mối quan hệ với CIA của Trần Kim Tuyến và Ngô
Đình Nhu.
Cẩn có cảm giác là mình bị bỏ rơi vì
Tuyến làm cái gì cũng hoàn toàn độc lập với Cẩn và điều đó có nghĩa rằng sự ủng
hộ của CIA chỉ dành cho một người đó là Ngô Đình Nhu. Tôi gặp đại tá Lê Quang
Tung và trình bày với ông ta về suy nghĩ của Ngô Đình Cẩn. Chúng tôi muốn bắt
đầu những hoạt động tình báo tấn công độc lập chống lại Bắc Việt và nhờ sự giúp
đỡ của đại tá Tung. Tung không đáp ứng một cách tích cực kế hoạch của chúng tôi.
Ông ta nói là đã có các nhóm công tác ở miền Bắc và họ làm việc rất tốt. Họ có
bị mất một vài người nhưng tin rằng họ sẽ thành công. Hiển nhiên đại tá Tung sẽ
không giúp đỡ như chúng tôi hy vọng. Chúng tôi muốn làm một cái gì đó ở Lào,
nhưng đề nghị đó cũng bị đại tá Tung từ chối nốt.
Có rất nhiều dạng hoạt động chống
lại Bắc Việt lúc đó. Có những nhóm nhân viên của đại tá Tung từ quân đội. Những
người đã được cử đến Liên đội quan sát 1 vào tháng 1 năm 1961 và họ đã ra Bắc.
Chúng tôi biết điều này do có những thông tin truyền nhận và phối hợp giữa Ngô
Đình Cẩn và Ngô Đình Nhu.
Có cả những mạng lưới điệp viên nằm
vùng. Các mạng lưới này được Pháp xây dựng trước khi họ rút vào năm 1955 và họ
chuyển các hồ sơ điệp viên đó cho chúng tôi. Pháp cũng chuyển một số cho một
linh mục Việt Nam, linh mục đó được cử sang Vatican nhưng ông được giao nhiệm vụ
phải đi khắp châu Á. Ông ta thường đến giảng đạo ở nhà thờ Huế. Chúng tôi bắt
đầu hiểu ra rằng Ngô Đình Nhu đã tiếp cận được với các tài liệu này theo con
đường của Pháp, và năm 1961 ông ta đã cung cấp các điệp viên nằm vùng này cho
CIA để phục vụ hoạt động gián điệp ra Bắc Việt Nam cùng với tổ chức của bác sĩ
Tuyến.
Chúng tôi đã liên lạc với các điệp
viên này qua cơ sở ở Đông Hà ngay sát khu phi quân sự. Cơ sở này là một bộ phận
của Tuyến chứ không phải của riêng Cẩn, nhưng Cẩn vẫn có thể chuyển những thông
tin của mình qua nó. Theo tôi biết thì CIA cũng đã giúp đỡ cơ sở này vào thời
điểm ấy.
Để kéo chúng tôi vào những hoạt động
này, Ngô Đình Cẩn đã trực tiếp đề nghị tôi giới thiệu cố vấn CIA cho Cẩn. Tôi là
người đầu tiên mà Ngô Đình Cẩn cử ra Bắc để chứng tỏ rằng chúng tôi có thể làm
không kém gì Ngô Đình Nhu. Để nghị được chấp nhận, bởi vậy tôi đã tham dự một
cuộc họp của Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông cùng cố vấn của CIA và một vài người
Việt Nam khác.
Sỹ quan CIA cho tôi biết rằng chiến
tranh sắp xảy ra và nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ họ chuẩn bị cho chiến tranh. Tôi
phải phát hiện các mục tiêu để máy bay ném bom, và viên sĩ quan CIA nói với tôi
rằng các cuộc ném bom bằng không quân sẽ có thể xảy ra trong khoảng 2 năm tới.
Điều này có nghĩa là chiến tranh có thể diễn ra công khai vào khoảng năm 1963.
Sau đó Cẩn đề nghị cấp cho tôi số tiền mà tôi cần. Tôi biết đó chỉ là tiền giả,
CIA đã in rất nhiều loại tiền đó. Tôi không màng đến một đồng nào bởi tôi sợ
rằng sẽ bị nguy hiểm nếu họ phát hiện ra tôi có rất nhiều tiền giả và buộc cho
tôi có quan hệ với CIA. Tôi được quyền tiến hành các hoạt động phá hoại mà không
cần đợi ý kiến của Huế. Tôi đã được xem tất cả ảnh của từng cá nhân mà tôi phải
bắt liên lạc từ người đầu tiên mà tôi sẽ phải gặp ở phía Bắc khu phi quân sự cho
đến những người ở nơi xa xôi phải đến là Quảng Yên. Vì thế tôi biết hình dáng
của họ như thế nào. Tôi còn được cấp một hộ chiếu nội bộ để sử dụng nếu gặp trở
ngại trước khi bắt liên lạc với người đầu tiên.
Tất cả chúng tôi đều nhận thấy rằng
tôi rất có thể bị giữ lại ngay trước khi đi sâu vào đất liền. Bất kể bị giữ lại
ở đâu tôi chỉ khai rằng tôi đi từ miền Nam. Phan Quang Đông là chỉ huy trưởng cơ
quan tình báo công giáo của Cẩn và là người lãnh đạo trực tiếp của tôi cho tôi
biết rằng tổ chức của Trần Kim Tuyến đã gửi 2 điệp viên tới Quảng Yên. Người thứ
nhất là người miền Nam. Tôi không biết anh ta là ai và tôi cũng chẳng bao giờ
biết gì hơn về anh ta. Người thứ hai là Phạm Chuyên. Tôi là người tiếp theo và
có thể có người nào nữa sau tôi nhưng tôi không biết chắc. Chuyên trước là cán
bộ trung cấp của Đảng đã vượt biên vào Nam năm 1959. Anh ta khẳng định rằng do
bất mãn nên trốn. Tổ chức của bác sĩ Tuyến đã tuyển anh ta làm điệp viên và cử
anh ta trở lại Quảng Yên đầu năm 1961.
Sở dĩ Ngô Đình Cẩn muốn đưa tôi ra
Bắc bởi vì ông ta có cảm giác rằng việc cài thành công Chuyên ra Bắc đã tạo cho
tổ chức của Tuyến một uy tín thực sự dưới con mắt của CIA. Nếu Nhu và Tuyến có
thể đưa Chuyên đến đó thì tôi cũng có thể làm được. Bên cạnh đó, Chuyên trước
kia là một đảng viên Cộng sản và có những lo lắng cho rằng Bộ Công an đã cử anh
ta vào Nam với nhiệm vụ xâm nhập vào tổ chức của Tuyến. Vì vậy Cẩn bảo tôi là
phải tránh xa Chuyên, nhưng phải báo cáo mọi điều mà tôi biết về anh
ta.
Tất nhiên chúng tôi muốn sự giúp đỡ
của Mỹ dẫu có bị hạn chế. Chẳng hạn, Ngô Đình Cẩn ve vãn người Nhật vì có tin
người Nhật sắp đầu tư vào Việt Nam và Cẩn có vẻ xuôi theo hướng đó.
Việc tăng cường sự hiện diện của
quân đội Mỹ ở Việt Nam theo những gì mà tôi được nghe Tổng thống Diệm muốn nhận
được viện trợ của Mỹ nhưng lại không muốn quân đội Mỹ có mặt ở Việt Nam, và
chúng tôi đã tranh luận với nhau quan điểm đó.
Diệm sợ rằng nếu lực lượng bộ binh
của Mỹ vào Nam Việt Nam thì quân Trung Quốc có thể nhảy vào phía Bắc. Nếu điều
đó xảy ra thì cuối cùng người Mỹ sẽ phải rút khỏi Việt Nam và lực lượng của Hà
Nội sẽ chiếm miền Nam và sử dụng nó để thiết lập quan hệ với chính phủ Bắc Kinh.
Vì vậy nếu một khi quân đội Mỹ không vào Nam Việt Nam thì Trung Quốc cũng không
vào Bắc Việt Nam, và Bắc Việt Nam sẽ không có sự giúp đỡ rộng lớn từ khối cộng
sản.
Đầu năm 1961 thiếu tá Lê Văn Bưởi
vượt sông Bến Hải ra Bắc Việt Nam. Sau khi được chuyển qua các cơ sở liên lạc
anh ta đã đến cảng Đông Bắc - Hòn Gai. Bưởi tiếp tục kể:
- Lúc ấy mạng lưới điệp viên nằm
vùng ở đó còn rất nhỏ bé. Họ có quan hệ thường xuyên với miền Nam, được cung cấp
điện đài và các vật dụng khác do tàu đánh cá Đài Loan-loại dùng để cung ứng cho
các mạng lưới. Tôi biết họ vì tôi đã đến một lần bằng thuyền vào năm 1959 và gặp
những người đi lên thuyền của chúng tôi. Sau đó, tôi đến lần nữa vào năm 1961,
với một người và gặp những người đánh cá đó là những người cung ứng thường xuyên
theo định kỳ của mạng lưới. Thời điểm đó thì việc làm này cũng đơn giản vì việc
đánh cá ở vịnh Bắc Bộ chưa bị ai cản trở.
Mạng lưới điệp viên chúng tôi ở Hòn
Gai sử dụng máy điện đài để liên lạc với miền Nam mỗi tuần một lần. Và tôi có
thể gửi những thông tin bằng vô tuyến về cho Ngô Đình Cẩn. Chúng tôi có thể
chuyển điện đài di động ở nhiều địa điểm trong và ngoài thành phố-những nơi được
gọi là các hòm thư chết-nơi mà chúng tôi có thể gửi hoặc nhận thông tin mà không
bị ai phát hiện. Tôi không nhìn thấy máy điện đài và cũng chẳng biết người ta sử
dụng mã gì. Hơn nữa tôi cũng chẳng quan tâm đến điều đó.
Tất cả những gì cần cho tôi là có
thể gửi và nhận thông tin. Tôi có thể nhận thông tin thường xuyên từ Ngô Đình
Cẩn và luôn biết rằng các thông tin đó chính là của ông ta. Tất cả các tin ấy
đều có dấu hiệu xác thực theo quy ước có nghĩa là thông tin đó là của ông Cẩn
với các dấu hiệu quen thuộc.
Rồi sau nửa năm thu thập thông tin
và tiến hành một số hoạt động phá hoại nhỏ, Bưởi kể rằng tình hình bắt đầu thay
đổi: có những cuộc tuần tra ở trong khu vực nhưng chưa có chuyện gì quan trọng
xảy ra. Cho đến đầu năm 1962 khi một chiếc thuyền xâm nhập từ miền Nam ra bị bắt
gần Hòn Gai cùng với các thuyền viên. Thuyền đó không phải cung cấp cho tôi và
tôi cũng chẳng làm gì có hại đến họ. Vì vậy tôi bắt đầu nghi ngờ Chuyên. Một
trong những liên lạc viên của tôi đã chỉ Chuyên cho tôi và nói rằng mạng lưới
rất lo lắng vì nghi anh ta làm việc cho Bộ Công an. Câu hỏi duy nhất mà họ đặt
ra là anh ta đã bị bắt và được họ sử dụng hay anh ta là một gián điệp đôi.
Chuyên có vẻ rất nổi tiếng và được một trong những nhân viên công an địa phương
một lần đã nói rằng có điều gì đó không ổn bởi sự có mặt của Chuyên ở Hòn Gai.
Công an Hòn Gai biết rằng anh ta đã vào Nam một thời gian rồi sau đó đột nhiên
quay trở về và sống yên ổn y như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Nhân viên công an
này nói Chuyên chắc là một cán bộ có cỡ và được giao nhiệm vụ làm tất cả những
điều mà không bị bắt cho đến khi anh ta quay trở lại Bắc Việt. Trong một thông
tin gửi cho Cẩn tôi đã báo cáo sự lo lắng về Chuyên. Cẩn đáp lại rằng: ông ta và
cố vấn CIA rất hài lòng với công việc mà tôi đã làm. Sau đó Chuyên rời khỏi Uông
Bí về Hà Nội và tôi mất dấu vết của anh ta.
Tại sao một người bị nghi là gián
điệp đôi như Chuyên lại có thể dễ dàng rời khỏi miền Bắc như một người tỵ nạn và
đi suốt vào Sài Gòn mà không bị một ai nghi ngờ hoặc lên tiếng cảnh báo? Thực ra
tôi cũng không thể đưa ra lời lý giải về nó. Có bao nhiêu việc đã xảy ra cứ
tưởng chúng liên quan với nhau, nhưng lại được ngăn cách riêng biệt. Trường hợp
của Chuyên có thể là đã đi qua Quảng Trị, ai mà khẳng định được nhỉ. Nếu đi theo
chương trình tỵ nạn thì sau khi chuyển tới Quảng Trị rồi tới Huế. Giả sử chúng
tôi phát hiện ra một người nào đó có thiện chí hợp tác thì Ngô Đình Cẩn sẽ lập
tức rút người đó ra khỏi danh sách rồi khéo léo tác động để đưa họ trở lại miền
Bắc làm việc cho chúng tôi. Ngược lại, nếu chúng tôi có ấn tượng nghi ngờ ai đó
là gián điệp đôi thì người đó sẽ được gửi vào Sài Gòn để xừ lý thông qua trung
tâm thẩm vấn Gia Định. Ở trường hợp của Chuyên lại đưa thẳng đến Sài Gòn, điều
đó đã nói rằng qua thẩm vấn sơ bộ đã có căn cứ để kết luận anh ta làm việc cho
Bắc Việt. Song chỉ việc anh ta được phái trở lại miền Bắc đã đủ sức phản bác lại
kết luận trên vì nếu không tin tưởng, không có thiện chí thì sao lại như vậy
được. Phải chăng đây là trường hợp ngoại lệ? Có nhiều khả năng là đã phát hiện
ra anh ta là ai và quyết định thử xem Hà Nội sẽ làm gì, có lẽ nên giả thiết như
vậy chăng? Nếu Chuyên cung cấp thông tin tốt thì chúng tôi sẽ có thông tin tốt
còn nếu anh ta cung cấp thông tin tồi thì chúng tôi sẽ khử anh ta.
“Như vậy chuyện gì đã xảy ra trong
vụ Chuyên?" Tôi hỏi Bưởi.
"Tôi không biết." Anh ta uể oải trả
lời, cơn đau đầu lại hoành hành: "Tôi làm việc cho Cẩn còn Chuyên thì làm việc
cho Tuyến. Tôi có những nhiệm vụ khác phải thực hiện".
Ed Regan cũng đưa ra quan điểm của
mình về việc thay đổi trong hoạt động:
- Sau khi Kenedy trở thành Tổng
thống (qua cuộc bầu cừ tháng 11-1959) thì sức ép tăng dần lên đòi hỏi phải tiếp
tục tăng cường hoạt động gián điệp ở mức thấp sang các nhóm bán vũ trang. Áp lực
đòi phải đưa các nhóm điệp viên bán vũ trang ra miền Bắc không phải xuất phát từ
trung tâm ở Sài Gòn mà là từ Washington.
Tổng thống Diệm và những người thuộc
cơ quan CIA tại Sài Gòn đều nhất trí dự kiến số lượng vũ trang của cộng sản ở
miền Nam không quá 3000 vào thời điểm 1959. Vào cuối năm 1960 theo như báo cáo
thì lực lượng "Việt cộng" đã lên tới 7000, vì thế Diệm và một số người Mỹ đã
rung chuông báo động là số lượng cộng sản còn nhiều hơn. Diệm và những tư lệnh
quân sự của mình đã mong nhận được sự giúp đỡ của Mỹ lớn hơn thông qua chương
trình viện trợ quân sự (MAP), và sự gia tăng sức mạnh của kẻ thù chính là động
lực để Washington có phản ứng. Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lê Duẩn có năng lực
thuyết phục khối cộng sản và những người cộng sản ủng hộ mình thì Tổng thống
Diệm cũng chẳng kém tài cán trong việc ve vãn Washington, bởi họ cũng mong muốn
tăng cường sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam.
Bắc Việt hiểu rất rõ rằng bất kỳ sự
tăng cường chiến tranh nào ở miền Nam cũng đều đòi hỏi có sự đảm bảo hậu phương
ở miền Bắc vững chắc.
Để ngăn chặn những hoạt động gián
điệp của miền Nam, Bộ Công an ở Hà Nội đã ra sắc lệnh số 20 VP-P4 ngày 8/1/1960
đóng cửa biên giới trên tuyến đường biển và đường bộ miền Bắc. Mệnh lệnh này bao
gồm cả sự tăng cường các hoạt động giữ vững an ninh chính trị trong các khu vực
này. Ngày 17/1 Bộ Chính trị ra chỉ thị số 186-CT-TW nhằm tập trung sự chú ý của
toàn dân vào 2 nhóm chủ yếu cần phải loại trừ về mặt chính trị được xác định là
có liên quan trực tiếp trong hoạt động "phản cách mạng" do nước ngoài chỉ huy:
công giáo và các dân tộc thiểu số. Vào tháng 9 đại hội lần thứ ba của Đảng Lao
động đề cập đặc biệt đến chiến tranh tâm lý, gián điệp, các hoạt động bán quân
sự chống lại miền Bắc. Đại hội kêu gọi đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Điều này
diễn ra khi Đảng đang chuẩn bị kế hoạch 5 năm lần thứ nhất bắt đầu vào năm
1961.
Sau hơn 3 thập kỷ khi viết về giai
đoạn này Việt Nam coi tháng 2/1960 là thời điểm mà lực lượng Công an Nhân dân Vũ
trang (LLCANDVT) tiếp nhận hệ thống mật mã T09 thay cho hệ thống mật mã cũ là
DB2. Là một dạng của KTB4-một hệ thống mật mã không sử dụng rộng rãi đối với
QĐNDVN trong 7 năm tiếp theo-hệ thống T90 được coi là có độ an toàn gấp đôi hệ
thống mật mã cung cấp cho LLCANDVT năm 1959. Giờ đây, Hà Nội công nhận các bộ mã
và các quá trình liên lạc đã được cải tiến này là chìa khoá để họ có thể đối phó
với các điệp viên của miền Nam xâm nhập ra miền Bắc.
Việc chuyển sang mật mã mới an toàn
hơn là kết quả của cuộc họp Bộ Chính trị ngày 17/2/1960. Cuộc họp này đã xem xét
các hoạt động gián điệp bán vũ trang được cài cắm chống lại miền Bắc và điều
chỉnh kế hoạch để đối phó với chúng. LLCANDVT được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho các
hoạt động phản gián do Bộ Công an chỉ đạo. Đây là lực lượng mũi nhọn trong việc
bắt các nhóm gián điệp khi chúng xâm nhập và đảm bảo an ninh xung quanh khu vực,
phát hiện tín hiệu có nghi vấn hoặc các điện báo viên từ phía Nam đến. LLCANDVT
toàn Việt Nam đã xây dựng và thực hiện một chế độ báo cáo hàng ngày và hàng tuần
về tất cả các hành vi khả nghi dọc tuyến biên giới phía Bắc.
Ngày 10/3, tư lệnh LLCANDVT đã giao
quyền cho một số đồn biên phòng và các địa phương dọc biên giới Lào trực tiếp
báo cáo bằng vô tuyến cho Bộ chỉ huy LLCANDVT về tất cả những hoạt động khả nghi
càng nhanh càng tốt. Điều này là cần thiết để đảm bảo rằng mọi thông tin về
những nhóm điệp viên khả nghi được chuyển ngay lập tức đến bộ phận lãnh đạo cao
nhất của LLCANDVT. Những dấu hiệu khả nghi bao gồm cả việc nhìn thấy các máy bay
khả nghi, có khả năng hoặc thực tế có biệt kích nhảy dù; từ khi bắt đầu báo cáo
thì các chỉ thị giữa Bộ chỉ huy các LLCANDVT và các đồn, các trạm biên phòng
được chuyển tiếp và nhận ở Hà Nội chậm nhất trong vòng vài gìờ.
Nhờ sự đánh giá trùng lặp của Bắc
Việt rằng: "Các hoạt động mã thám của kẻ thù đang được tăng cường", nên thông
tin cần phải chuyển bằng các tín hiệu mật mã trên mạng lưới vô tuyến của
LLCANDVT chỉ giới hạn trong các vấn đề có tính chất khẩn cấp. Các thông tin vô
tuyến tiếp tục được ngụy trang bằng cách xáo trộn nội dung của chúng và bằng
cách sử dụng các phương pháp gây nhiễu khác nhằm cản trở khả năng thu thập của
đối phương khi có ý định giải mã các thông tin này.
Lực lượng phản gián trực thuộc Bộ
Công an, một lực lượng thường gọi là biệt động được Bắc Việt xem như là "một
phương pháp an ninh đặc biệt" sử dụng để tấn công kẻ thù. Như Bắc Việt mô tả
khái niệm biệt động, đó là vấn đề phải đấu trí ngay với kẻ thù.
Khi một nhóm điệp viên bị bắt và
nhân viên điện đài phải phát tín hiệu theo lệnh của Hà Nội. Vấn đề mấu chốt đối
với hoạt động này là giữ an toàn tuyệt đôi đối với các mệnh lệnh, chỉ thị và
thông tin có liên quan đến hoạt động khi mà các chi tiết này được truyền bằng
tín hiệu mật mã. Chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể làm kẻ thù nghi ngờ và cuộc
chiến tranh thầm lặng này sẽ có thể dẫn đến thất bại. Chỉ những cán bộ trực tiếp
phụ trách thực hiện chiến dịch, các cán bộ mật mã và các chuyên gia giúp đỡ trực
tiếp là những người duy nhất được phép biết nội dung bí mật của các hoạt động
này.
Suốt cả năm 1960 CIA ở Sài Gòn tiếp
tục nhằm vào các hoạt động gián điệp ở mức tương đối thấp chống lại Bắc Việt.
Đối với quan chức CIA ở Sài Gòn và Đà Nẵng, những người trực tiếp cử điệp viên
ra Bắc thì thành công được đo bằng kết quả thực tế các điệp viên được cài cắm
một cách an toàn và trở về Nam với nhiều thông tin có giá trị. Sau đó, vào cuối
1960 đề nghị của CIA được nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC)
thông qua, thì các hoạt động của CIA Sài Gòn chuyển sang các nhóm điệp viên bán
vũ trang, chứ không chỉ là các điệp viên bình thường.
Đầu năm 1961, tổ chức của bác sĩ
Tuyến đã tuyển các nhóm điệp viên vũ trang theo mục đích của Colby bắt đầu gây
nên một vài sự rối ren đối với miền Bắc , trong khi miền Bắc gây nên tình hình
xáo trộn lớn ở miền Nam. Colby giải thích:
- Chiến lược của chúng tôi chỉ nhằm
xây dựng một bộ khung ở đấy. Chỉ cần một bộ khung dưới hình thức nào đó mà chúng
tôi có thể dựa vào để xây dựng lực lượng kháng chiến và phá hoại hoặc làm bất cứ
cái gì cần làm như chiến tranh tâm lý hay các việc tương tự. Bước đầu chỉ cần
một số người để có thể liên lạc được, chứ không cần quá tinh tế.
Theo như tôi nhớ và chắc là như vậy
thì vị trí của các nhóm chủ yếu được chọn trên cơ sở sự quen thuộc địa hình, địa
vật trong nhóm. Điều này có nghĩa là một trong những người trong nhóm của bạn
đến từ một vùng quê nào đó thì yêu cầu anh ta quay trở lại và bắt liên lạc ở
vùng ấy. Tôi cho rằng nếu bạn có thể sống ở vùng núi thì sẽ an toàn hơn là sống
ở vùng bị kiểm soát chặt chẽ ở đồng bằng. Vì vậy, có xu thế đưa bạn ra khỏi các
trung tâm thành phố. Nhưng theo tôi tưởng, vẫn là ở chỗ phải xây dựng cơ sở mà
dựa vào đó chúng ta có thể xâm nhập vào vùng đồng bằng.
Về vấn đề các nhóm điệp viên ra Bắc,
có thể nhanh chóng cắm chốt dọc theo đường sắt của Hà Nội, Colby nói: "Điều đó
có thể là một mục tiêu bổ sung. Cùng với mục tiêu cuối cùng là phá hoại
chúng."
Với tư cách là trùm tình báo CIA ở
Sài Gòn, Colby cũng phải tranh cãi với các viên chức của Diệm-là những người rất
cần thiết cho hoạt động bí mật nhưng lại đang ngày càng trở thành mục tiêu của
sự hằn thù trong và ngoài nước, bởi Diệm không muốn chia sẻ quyền
lực.
Colby đã tỏ ra quá mệt mỏi trong
việc ủng hộ ông Nhu và bác sĩ Tuyến nên ông đã cùng với các quan chức Mỹ ở Sài
Gòn hối thúc việc gạt bỏ họ. Thế nhưng Diệm đã phớt lờ mọi yêu cầu
này.
Điệp viên ARES ra Bắc bằng thuyền
vào tháng 2/1961 và đổ bộ an toàn vào vùng Đông Bắc Quảng Ninh. Ngay lập tức,
anh ta thông báo việc đổ bộ an toàn của mình cho Sài Gòn.
Khi quan điểm mới của Colby về hoạt
động của các nhóm bán vũ trang đang được thực hiện thì một sự kiện khác lại xảy
ra ở nửa bán cầu bên kia có ảnh hưởng lâu dài đến chương trình bí mật của CIA,
nếu không nói là ảnh hưởng đến bản thân chiến tranh Việt Nam. Đó là sự kiện Vịnh
Con Lợn 17-19/4/1961 vụ đổ bộ vội vàng vào Cu Ba bị thất bại, gây ra tác động
đối với Việt Nam xảy ra ngày 20-4: khi Tổng thống Kennedy thành lập nhóm "nghiên
cứu đặc biệt", do tướng Maxwell Taylor phụ trách, có nhiệm vụ xem xét về thảm
họa vịnh Con Lợn và khuyến nghị để những hoạt động tương tự của Mỹ trong tương
lai ở môi trường không có chiến tranh công khai trở nên có hiệu quả.
Tổng thống Kennedy cho rằng "Chủ
nghĩa cộng sản" đang tiến hành chiến dịch gặm nhấm. Ông ta cũng bày tỏ sự quan
tâm nhiều đến các hoạt động bán quân sự đối đầu với cuộc chạy đua vũ trang đang
tiếp tục leo thang. Quan điểm của ông ta cho thấy: "Cách mạng l959” của Cu Ba và
thất bại ở vịnh Con Lợn hai năm sau đó chỉ là dấu hiệu của những vấn đề sắp xảy
ra. Ông cho rằng: cả Nam Việt Nam và Lào tiếp theo cũng trở thành cộng sản, nếu
không có một biện pháp gì đó thật hữu hiệu để ngăn chặn và phải tiến hành thật
nhanh. Giải pháp của Tổng thống là bắt đầu một quá trình chuyển các hoạt động
dạng bán quân sự kiểu này từ CIA sang Bộ Quốc phòng ở Việt Nam, đồng thời đưa
vào kế hoạch chiến tranh đã được Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (JCS) thông
qua.
Ngày 13/6, nhóm của tướng Taylor đã
đệ trình báo cáo kết quả nghiên cứu của mình cho Tổng thống Kennedy, báo cáo chỉ
ra rằng: "Mỹ đang ở trong một cuộc chiến tranh một mất một còn mà chúng ta có
thể đang hoặc sẽ thất bại, trừ khi chúng ta thay đổi cách thức và điều phối được
các nguồn lực, với một cường độ giống như thời kỳ chiến tranh trước kia". Báo
cáo đề nghị là phải phối hợp tập trung lực lượng bán quân sự bí mật ở Việt Nam,
và những phần chủ yếu của đề nghị này đã được Kennedy thông qua vào ngày
28/6.
Trong khi Kennedy yêu cầu đánh giá
về sự kiện Vịnh Con Lợn, thì bốn trung sĩ thuộc sư đoàn 22 quân đội Việt Nam
Cộng hoà cũng đang chuẩn bị tiến hành thực hiện chương trình mở rộng hoạt động
ra miền Bắc của CIA. Họ được các sĩ quan tình báo của sư đoàn 22 phát hiện là có
khả năng tiến hành các hoạt động cho Sở khai thác địa hình xâm nhập vào Bắc
Việt. Tất cả bọn họ đều người gốc Sơn La và đã phục vụ quân đội Việt Nam trong
liên hiệp Pháp.
Họ được đưa về Sài Gòn sau khi đồng
ý tự nguyện tham gia chuyến công tác bí mật ra Bắc. Khi văn phòng 45 thông báo
cho biết là sẽ nhảy dù xuống Sơn La thì họ đã không khước từ ý định tham gia
chuyến công tác này. Tháng 5, bốn người đó trở thành toán CASTER dưới sự chỉ huy
của Hà Văn Chấp. Họ được thả xuống Sơn La và ở đó lực lượng của Bắc Việt đã sẵn
sàng chờ đón. Chẳng bao lâu sau khi họ bị bắt, nhân viên điện đài đã buộc phải
làm việc cho Cục phản gián-Bộ Công an. Anh ta đã thông báo cho Sài Gòn là nhóm
đã đến nơi an toàn. Toán CASTER vẫn tiếp tục liên lạc qua điện đài như là một
toán độc lập cho đến tháng 7/1963 khi CIA cho rằng họ đã mất liên lạc với
CASTER. Lần xuất hiện cuối cùng của CASTER là ở Lào. Ngày 2/6, 3 người thuộc
toán ECHO nhảy dù xuống huyện Lam Trạch thuộc vùng ven biển Quảng Bình. Họ bị
bắt cùng với các thiết bị điện đài mà Cục phản gián đã sử dụng để mở rộng chiến
dịch nghi binh lúc đó đang phát triển. Nhân viên điện đài đã làm theo mệnh lệnh
của Bắc Việt nhưng bí mật báo cho Sài Gòn biết là mình đang bị khống chế. Sau
đó, Trung tâm CIA ở Sài Gòn liền dùng cái gọi là "trò chơi vô tuyến" mèo vờn
chuột thầm lặng với kẻ thù thông qua sóng vô tuyến. Trò chơi này được tiếp tục
cho đến 8/1962 khi CIA chủ động chấm dứt.
Cũng tháng 6 năm đó, 4 trung sĩ khác
đều là người Tây Bắc Việt Nam đã tham gia lực lượng bán quân sự đang phát triển.
Được lập thành toán DIDO, họ nhảy dù xuống Lai Châu, gần thị xã. Một thành viên
trong toán đã kể lại số phận của họ cho một biệt kích khác trong tù như sau:
"Sau khi đổ bộ, chúng tôi chạy ra khỏi rừng. Tôi chạy về nhà lấy thức ăn liền bị
bắt trước khi quay trở lại với đồng đội".
Lực lượng an ninh Hà Nội được đưa
đến chỗ của DIDO và nhân viên điện đài đã bị thuyết phục phát tín hiệu dưới sự
khống chế của Hà Nội. Anh ta cũng phải theo những thủ tục qui định nhưng đã ngầm
báo cho Sài Gòn biết mình đang phát tin dưới sự khống chế của Hà Nội, và còn có
hai điệp viên khác đã nhảy dù để tăng cường cho toán này.
Toán DIDO cũng giống như ECHO trở
thành đối tượng của "trò chơi điện đài" giữa CIA và Hà Nội cho đến khi CIA từ bỏ
liên lạc với DIDO. Mặc dù Sài Gòn nhận biết được họ đã bị bắt nhưng theo báo cáo
thì DIDO chịu trách nhiệm đối với sự mất tích của toán REMUS sau đó.
Cũng vào tháng 6/1961, sĩ quan CIA
Samuel Halpern đến Sài Gòn. Là sĩ quan văn phòng ở Tổng hành dinh của CIA ở
Washington năm l945, ông ta đã giám sát các hoạt động của điệp viên Patti thuộc
OSS ở Đông Dương. Halpern đến Sài Gòn với một nhiệm vụ rất đặc biệt. Ông ta đã
kể lại một cách ngắn gọn nhận thức của mình về hoạt động của Colby:
-Tháng 6/1961, Cục trưởng Cục Viễn
Đông Desmond Fitgerald đã cử tôi đến Sài Gòn thực hiện một nhiệm vụ bất thường.
Tôi ở đó khoảng 4 tháng do liên quan đến một ý tưởng khác của tướng Edward
Lansdale. Ý tưởng đó là phải tìm ra vị trí của tất cả các máy phát vô tuyến của
Việt cộng ở Nam Việt Nam rồi thả các nhóm lính dù xuống đó để bắt nhân viên điện
đài cùng các trang thiết bị liên quan. Lúc đó, tôi là đại diện của CIA Sài Gòn
trong một nhóm hỗn hợp Mỹ-Việt Nam Cộng hoà có nhiệm vụ thực thi ý tưởng đó. Nó
tưởng chừng như đơn giản nhưng chưa bao giờ thành công. Lansdale là phó cho
thiếu tướng Graves Erskine-chỉ huy văn phòng các hoạt động đặc biệt trực thuộc
Bộ Quốc phòng. Lansdale làm phó văn phòng từ 1957-1963 và văn phòng của Erskine
là điểm chốt trong Bộ Quốc phòng để trợ giúp về mặt quân sự nếu CIA cần hoặc yêu
cầu. Lansdale đã phục vụ đắc lực cho Tổng thống Magsaysay ở Philipine vào giữa
những năm 1950, và đã trở thành một nhân viên "kỳ diệu”. Sự “kỳ diệu” này không
thể có ở Nam Việt Nam và Cu Ba. Trong khi phỏng vấn, tôi đã hỏi Halpern: "Nhìn
chung, các hoạt động này được thực hiện như thế nào theo quan điểm phát triển đã
được ban NSC5412 thông qua sự cho phép của Bộ tổng hành dinh và các yêu cầu của
CIA ở Sài Gòn để phối hợp tác chiến theo quan điểm và sự điều chỉnh của Bộ tổng
hành dinh?" Ông ta tiếp tục: "Tôi nghĩ rằng sự phân cấp ở đây cũng giống như tất
cả các hoạt động dạng thế này, cụ thể là được nhóm đặc biệt của Hội đồng an ninh
thông qua. Trong nhiều năm, nhóm đặc biệt đã được biết đến dưới nhiều cái tên
khác nhau: 5412, 303 nhóm đặc biệt"...
Sự phân cấp cơ bản đối với các hoạt
động này có thể bắt đầu với sự thông qua về mặt nguyên tắc từ nhóm đặc biệt,
hoặc cũng nhóm đó với một tên khác vào một thời điểm khác. Nó có thể xuất phát
từ ý tưởng của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng hay Bộ Tổng hành dinh của CIA, hoặc
theo đề nghị của chỉ huy một bộ phận CIA ở nước ngoài. Đề nghị được đưa đến cho
nhóm đặc biệt phải viết theo mẫu chuẩn của tài liệu dạng quân sự. Bất cứ sự thay
đổi lớn nào về quan điểm, cần phải có sự chấp nhận của nhóm đặc biệt. Sự chấp
nhận quan điểm thường được xử lý bởi một sĩ quan văn phòng thích hợp phụ trách
khu vực hoạt động đó.
Tất cả mọi hoạt động đều có tính độc
lập. Chẳng hạn rất ít sĩ quan trong cơ quan tình báo biết được rõ ràng những
thông tin về U2, và còn ít hơn nữa có thể nhìn thấy những sản phẩm cụ thể. Tôi
không nhớ ràng Việt Nam được coi là mục tiêu ưu tiên cao vào cuối năm 1960 hay
đầu 1961. Không phải theo nghĩa về sự ưu tiên quốc gia của chúng ta được đặt ở
đâu. Như mối quan tâm hàng đầu là Liên Xô, sau đó là Trung Quốc và những vấn đề
khác. Việt Nam không phải là một trong những ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Tôi
đã đại diện cho trạm CIA Sài Gòn ở Hội nghị chỉ huy các trạm trưởng vào đầu 1961
ở Tổng hành dinh Thái Bình Dương và tôi không nhớ rằng: chúng tôi đã thảo luận
về các hoạt động bán vũ trang có áp lực gì đối với trạm CIA ở Sài Gòn không? Tôi
hỏi Halpern. Ông ta cười và trả lời: “Có thể là có áp lực ở thời điểm đó bởi vì
họ chắc chắn là có mặt ở các khu vực khác và ở các thời điểm khác. Chẳng hạn như
vụ Mongoóe ở CuBa vào cuối năm 61-62 rồi sau đó nữa. Ví như sau vụ Vịnh Con Lợn,
Giám đốc CIA sẽ tiếp tục phát triển các hoạt động của mình. Đấy là một giai đoạn
khó khăn nhưng chúng tôi cũng vẫn phát triển. Tôi nghĩ là không có ảnh hưởng gì
đến hoạt động của bản thân Sài Gòn. Bởi vì CuBa là CuBa mà Việt Nam là Việt
Nam".
Khi tôi hỏi Halpern là ông đánh giá
thế nào về trạm CIA Sài Gòn thì ông ta nói: “Chỉ huy trưởng trạm CIA Sài Gòn rất
tích cực trong việc tiến hành các hoạt động ra miền Bắc . Tôi nhận ra vấn đề này
vào cuối tháng 6/1961, khi đến gặp ông ta ở Văn phòng và thấy ông ta cùng với
cấp phó của mình ở Trung tâm tín hiệu nằm trên tầng cao nhất của Đại sứ quán cũ.
Trạm đã có một nhóm sẵn sàng lên đường nhưng vẫn chưa nhận được lệnh cho phép từ
Bộ Tổng hành dinh.
Trưởng trạm CIA Sài Gòn đã gửi một
bức điện báo khẩn trước đó, và tôi ngạc nhiên là ông ta vẫn chưa nhận được trả
lời, nhất là khi máy bay đang chờ cất cánh để đưa các điệp viên đi. Tôi đề nghị
là cần phải gửi một bức điện báo thượng khẩn và họ cũng đã gửi bức điện báo đó.
Chỉ trong vòng vài phút sau họ đã nhận được bức điện "thượng khẩn" trả
lời.
Ở Sài Gòn, tôi biết rất ít về các
hoạt động ở miền Bắc, ngoại trừ một điều: hình như mục đích của chúng chỉ là để
thu thập thông tin. Ý tưởng ở đây là đưa một số người ra Bắc thu thập thông tin
và báo cáo về Sài Gòn. Nhiệm vụ của họ là đi thăm dò xem có điều gì xảy ra ở đó?
Ai là cái gì? Rồi báo cáo. Bây giờ thì tôi mới biết rằng: các toán còn được giao
những nhiệm vụ khác nữa.
Việc ngủ lại trung tâm tín hiệu của
Trạm CIA Sài Gòn có lẽ đã làm cho Samuel Halpern trở thành ngoài cuộc đối với sự
kiện quốc tế đang xảy ra. Sáng sớm ngày 1/7, một chiếc máy bay C47 khác của đại
tá Nguyễn Cao Kỳ đã bay ra Bắc để thả một nhóm điệp viên vào hậu phương của
địch, chiếc máy bay đó bị rơi ở Ninh Bình ngay khì mới bay vào đất liền, theo
như báo cáo thì do một đơn vị phòng không có tên là Gun Crew 40 nhận được lệnh
bắn. Một điệp viên và hai nhân viên của đội bay đã thoát nạn. Họ đã bị bắt vào
ngày 2/7 và chờ xử án ở Hà Nội vào tháng 11 năm đó. Việt Nam đã gắn sự kiện này
với sự thành công bắt được toán CASTER trong khi đó lại làm thinh về vai trò
thực tế của ARES.
Tháng 12 năm đó, Quân đội Nhân dân
Việt Nam đã đưa ra thông báo về việc xử ba điệp viên bị bắt ở Ninh Bình, trong
đó có nói rằng: những hoạt động gián điệp chống lại Bắc Việt là do quân đội Mỹ
tiến hành. Các lời xác nhận của phi công C47 đã khẳng định: mệnh lệnh mà anh ta
nhận được là từ quân đội Mỹ, từ một văn phòng mang tên là "nhóm cố vấn Mỹ". Đối
với mọi người Mỹ có liên quan đến các hoạt động gián điệp được Hà Nội coi như là
chịu sự chỉ đạo của Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI). CIA không được nhắc đến
trong vụ án công khai tháng 12/1961.
Vụ án đã nhắc tới Liên đội quan sát
1 và Ngô Thế Linh-Phụ trách văn phòng 45 như là những người chỉ huy các hoạt
động của các nhóm gián điệp dưới sự điều khiển của quân đội Mỹ.
Vì Hà Nội đã biết vai trò thực sự
của CIA trong các hoạt động bí mật, nên coi vụ này là trách nhiệm của Lầu Năm
góc. Đây là một sự liên kết lưới trong dàn hợp xướng rất thận trọng của Hà Nội,
nhằm thuyết phục những người dân Bắc Việt về sự tăng cường đe doạ quân sự của
Mỹ. Việc sử dụng các nhân viên quân sự mặc quân phục đã không được Hội đồng tình
báo an ninh quốc gia (NSCID) 5412/2 thông qua. Sự phủ quyết này theo William
Colby thì không thể áp dụng được. Căn cứ vào sự phê chuẩn ngày 11/1960 của Ban
5412, trong đó ông ta nhắc lại đã thông qua quan điểm của CIA về các hoạt động
đối với Bắc Việt, và quan điểm về sử dụng lực lượng không quân Việt Nam Cộng hoà
để chuyên chở các điệp viên. Mặc dù Colby phủ nhận việc máy bay C47 rơi là một
sự kiện quốc tế, nhưng báo chí quốc tế kể cả báo chí Mỹ cũng đã viết vấn đề này.
Samuel Halpern cũng ủng hộ lập luận của Colby: "Tôi ở Sài Gòn khi sự việc xảy ra
và tôi chẳng biết tí gì về nó vì tôi không tham gia vụ này”. Có thể là không có
mâu thuẫn với 5412-nơi đề ra các đường lối chung. Đối với trường hợp của Sài
Gòn, nếu có nhân viên mặc quân phục tham gia thì điều đó có nghĩa rằng: nhóm đặc
biệt đã chấp nhận việc sử dụng họ trong những hoạt động đặc biệt. Sự cấm đoán
không quá cứng nhắc đến nỗi Ban 5412 không thể điều chỉnh được khi viện ra một
nguyên nhân hợp lý nào đó.
Có một nguyên nhâu: điều khoản phủ
nhận khả thi trong NSCID 5412/2 là sự thể hiện rằng hoạt động này là do Việt Nam
Cộng hoà tiến hành.
Colby tin tưởng rằng: đã có một sự
cố gắng để loại bỏ những bằng chứng về sự hiện diện của Mỹ ở trên máy bay, mặc
dầu vụ án ở Hà Nội đã đưa ra rất nhiều bằng chứng về các vật liệu do Mỹ sản xuất
nhặt được từ các mảnh vụn xác máy bay. Trong đó bao gồm một phần của bản đồ cũ
năm 1954 của Cục bản đồ quân đội Mỹ trên đó có một đường bay ghi bằng bút chì mà
chiếc máy bay C47 phải đi theo và những điểm cụ thể mà máy bay phải đổi hướng.
Người phi công đã thú nhận rằng đây chính là bản đồ mà anh ta dùng để định hướng
đường bay của mình. Sự đổi hướng cuối cùng của anh ta ở Bắc Việt lẽ ra là ở phía
Tây Hoà Bình trước khi anh ta bay về căn cứ không quân Udorn, Thái Lan và sau đó
trở về Sài Gòn.
Regan đã kể lại sự kiện chiếc C47 bị
bắn rơi và sự mất tích của toán NAUTILUS 1 (N1) sau đó 33 năm: "Tôi nhớ vụ C47
bị rơi, nhưng tôi không nhớ có bao nhiêu người trên máy bay. Chúng tôi nhận được
các báo cáo về đường bay cho đến khi nó bị rơi. Vì vậy chúng tôi biết rằng thực
sự họ đã bắn rơi nó…”
"…Điều tương tự cũng xảy ra với toán
trên thuyền cùng với những người nhái mà chúng tôi bị mất cuối 1962.
Chúng tôi đang theo dõi những người
Bắc Việt khi họ đang đuổi chiến thuyền xâm nhập, mà nó đang cố gắng đến vĩ tuyến
17 để được an toàn. Chúng tôi rất thất vọng theo dõi những điều đã xảy ra, bởi
vì biết rằng mình không thể vượt qua khu phi quân sự để giúp đỡ họ. Cuốí cùng
thuyền của họ đã bị chìm ở phía Bắc khu phi quân sự, và những người trên thuyền
bị bắt.”
CIA bị trách cứ về hàng loạt vấn đề
xảy ra ở miền Bắc nhưng không phải tất cả đều là do chúng tôi gây ra. Chẳng hạn
căn cứ không quân Đà Nẵng là nơi hạ cánh khẩn cấp cho các hoạt động do CIA bảo
trợ liên quan đến việc đưa máy bay sang Trung Quốc. Tôi nhớ Hà Nội đưa tin bắn
rơi một máy bay của chúng tôi nhưng sự thực lại không phải là của chúng tôi. Té
ra là một máy bay của chúng tôi làm nhiệm vụ ở Trung Quốc đã bị rơi ở Bắc Việt
trên đường quay trở lại Nam Việt Nam. Tôi kể lại điều này để làm ví dụ cho một
sự rắc rối mà Hà Nội trách cứ chúng tôi mặc dù chẳng có gì liên quan đến trạm
CIA ở Sài Gòn cả.
Trong khi các nhân viên còn sống sót
trên chiếc máy bay C47 bị tra hỏi thì thiếu tá Lê Văn Bưởi rời Huế ra Quảng Ninh
theo chuyến công tác riêng của mình. Tháng 9, những người trên thuyền của Ngô
Thế Linh tiếp nhận một điệp viên khác để đổ bộ vào bờ biển Nghệ An. Bưởi đến
được Hòn Gai, nhưng điệp viên được cử đến Nghệ An bị bắt ngay sau khi đổ
bộ.
Ed Regan nhớ lại các sự kiện xảy ra
ở Huế: trong khi Russ Miller có một cuộc họp rất thú vị giữa chúng tôi và Ngô
Đình Cẩn năm 1960 (một trong những sĩ quan của chúng tôi đã có điều kiện tiếp
xúc với Cẩn).
Tôi tin rằng có thể chúng tôi đã gửi
ra Bắc một ai đó từ nhóm của Cẩn vào mùa hè 1961, nhưng còn bị giới hạn trong
việc đầu tư cho hoạt động với hy vọng rằng sẽ có thông tin tình báo do điệp viên
được tung ra Bắc Việt. Tôi không nhớ là điều gì đã xảy ra với điệp viên đó. Có
một điệp viên khác cũng đã được lấy vào nhưng chúng tôi được biết hình như đã bị
bắt tại một ga tàu hoả.
Đến cuối năm, ít ra là có 3 nhóm bán
vũ trang đã đổ bộ xuống Bắc Việt, hai trong số đó hình như bị sự khống chế của
kẻ địch: một chiếc C47 cùng với các nhân viên trên máy bay cũng bị mất; và người
thứ ba - một gián điệp đôi có tên là ARES đã giúp Hà Nội chuẩn bị cho nạn nhân
tiếp theo toán điệp viên có mật danh là NAUTILUS.
3. NHỮNG CUỘC ĐỌ TRÍ.
Đêm 14 tháng 01 năm 1962, một chiếc
thuyền đánh cá không số hiệu lặng lẽ di chuyển đến vùng biển Việt Nam theo hướng
Bắc vào vịnh Bắc Bộ. Đối với những người bình thường thì đó chỉ là một nhóm ngư
dân đánh cá về muộn. Nhưng thực tế chiếc thuyền này chở một toán nhân viên CIA
có mật danh là NAUTILUS1 (N1). Những người trong toán này đều ở tuổi thanh
niên.
Toán này đã xuất phát từ cảng Đà
Nẵng vào lúc 5 giờ sáng, ngày 12 tháng 1 năm 1962. Ngoại trừ viên thuyền trưởng,
còn không một ai biết về kế hoạch của trung tâm chỉ huy trực tiếp do Sở phòng vệ
duyên hải phụ trách. Không một ai biết được nội dung bức điện của ARES nói rằng
anh ta cần tiếp tế lương thực, vũ khí, điện đài. Họ chỉ được biết rằng đó là một
chuyến đi ngắn khoảng 4-5 ngày. Vài tháng trước đây N1 đã chở một điệp viên mà
những người trong nhóm chỉ biết tên là Quang và được đưa vào bờ biển Hà Tĩnh tại
một điểm ở đèo Ngang. Đây là một vị trí mà các điệp viên thường đổ bộ từ biển
rồi trà trộn trong số ngư dân trong thị trấn để thu lượm những tin tức qua trò
chuyện của người dân ở đây. Bờ biển phía Bắc vẫn là nơi dễ dàng xâm nhập và rút
lui vì việc tuần tra kiểm soát ít khi diễn ra trên biển.
Những người đi trên thuyền đã trải
qua hai ngày đầy vất vả, lặng lẽ đưa thuyền từ hướng Bắc tiến vào Vịnh Bắc Bộ.
Đến gần Hòn Gai họ thả neo dọc theo một trong hàng trăm hòn đảo lô nhô gần bờ
đánh dấu vị trí bờ biển và giả vờ câu cá để chờ trời tối. Những ngư dân địa
phương chèo thuyền đến gần và hỏi họ đang làm gì. Họ nói là đi mua cá và sau đó
ngư dân địa phương bỏ đi.
Đến khuya NAUTILUS 1 nhổ neo. Chiếc
thuyền chạy vòng quanh một hòn đảo nhỏ ở phía bắc cảng Hòn Gai và thận trọng
tiến về phía bờ biển. Viên thuyền trưởng bóp đầu suy nghĩ tìm cách để đưa 27
chiếc hòm đựng hàng tiếp tế được giấu sẵn dưới khoang thuyền trót lọt. Sài Gòn
và Washington hy vọng rằng những trang thiết bị này sẽ được giao cho điệp viên
ARES.
Để giảm bớt thời gian bốc dỡ hàng,
viên thuyền trưởng mạo hiểm cho thuyền chạy thẳng đến một điểm sát bờ nơi có
nhiều nguy hiểm, nhưng chưa có dấu hiệu nào chứng tỏ họ bị phát hiện. Họ thả một
chiếc xuồng nhỏ xuống và chuyển những hòm hàng vào bờ, chỉ cách đó một khoảng
không xa. Ba người trong toán trèo lên xuồng để xếp hàng tiếp tế cho một người
đàn ông có tên là Thuỵ-một điệp viên mà họ đưa vào bờ năm 1961 ở khu vực
đó.
Khi những hòm hàng đầu tiên vừa mới
được xếp xuống xuồng thì có tiếng hô của những người trên một chiếc tàu tuần
tiễu của Việt Nam. Đây là chiếc tàu đã theo dõi mà NAUTILUS 1 không một ai phát
hiện được. Đường tháo chạy đã bị tàu tuần tiễu chặn lại:
"Hãy đầu hàng nếu không sẽ bị
chết!”
Toán thủy thủ biết không thể chống
cự để thoát ra khỏi bãi biển được. Ba người trên xuồng liền nhảy ào xuống nước,
nhưng những người Bắc Việt đã nhanh chóng kéo họ lên chiếc tàu tuần
tiễu.
Viên thuyền trưởng của nhóm N1 mang
theo trong mình tất cả những tấm thẻ của Sở Phòng vệ duyên hải. An ninh bờ biển
tỏ vẻ vui mừng khi phát hiện và bắt giữ họ. Thế là đã khẳng định được những
người trên chiếc thuyền đó là ai mà không cần phải điều tra khai thác thêm gì
nữa. Tuy nhiên họ cũng đặt ra một số câu hỏi để kiểm tra từng người và những mối
quan hệ gia đình…
Một người trên chiếc tàu tuần tiễu
nói rằng: "Các anh biết đấy, chúng tôi đã đợi sẵn rồi, các anh không thể lọt qua
khỏi mắt chúng tôi được đâu, thế là các anh đã bị sập bẫy. Chúng tôi biết rõ ai
sẽ đến và đến làm gì".
Những người trong toán N1 liền bị
trói, bị bịt mắt và sau đó được đưa lên xe tải chở về Hòn Gai để giam giữ riêng
từng người một tại khu nhà tạm giam. Từng người một được chụp ảnh và sau đó là
cuộc thẩm vấn kéo dài 6 tháng. Những câu hỏi xoáy vào những chi tiết tỷ mỹ nhất
về những người chỉ huy, những người Mỹ đã huấn luyện họ, về những chiếc thuyền,
từng vai trò công vụ của toán N1 và những toán khác tại Đà Nẵng. Mùa hè năm đó
họ bị toà án quân sự đưa ra xét xử, rồi tuyên án từng người với các mức độ khác
nhau và cuối cùng họ bị giam giữ trong hê thống nhà tù khổ sai được canh giữ
nghiêm ngặt nhất ở Hà Nội, do Bộ Công an quản lý.
Mấy tháng sau, người dẫn đường của
toán, lúc gần chết có gọi một người trong toán đến để nói điều mà bấy lâu nay
anh ta sợ không dám nói ra. Anh ta tắt thở và người bạn đã hiểu dược điều anh ta
nói đó là:
"…Một người có tên là Thuỵ,Thuỵ được
chúng ta đưa vào Quảng Yên năm 1961. Hắn đến thăm tôi tại phòng giam ở Hòn Gai
trong bộ pijama màu đen. Nhìn hắn có vẻ tự do thoải mái. Hắn đứng hút thuốc và
nói chuyện tự nhiên. Hắn bảo tôi rằng hắn biết người phụ trách nhà tù và được
phép đến thăm tôi. Tôi và hắn nói chuyện một lúc là tôi biết rõ điều gì đã xảy
ra. Rõ ràng hắn đã làm việc cho cơ quan công an Bắc Việt từ lâu rồi, hắn là gián
điệp đôi”.
Sau năm đó, viên chỉ huy Sở phòng vệ
duyên hải theo lệnh của Ngô Thế Linh báo cáo là đã ra lệnh cho toán NAUTILUS
quay trở lại khu vực Hòn Gai. Người ta định sẽ đưa vợ và hai con nhỏ của Thuỵ
cùng với em trai trên chuyến tàu đó. Một số người được nghe là Thuỵ đã báo cáo
rằng hắn đang hoạt động một cách an toàn gần ngay Hòn Gai và yêu cầu đưa vợ con
đến với hắn. Sài Gòn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đó. Toán N1 đang ở trong tù khi
chiếc tàu tới nơi với một gia đình có 4 người lên bờ và trở về Nam Việt Nam an
toàn.
Vụ bắt NAUTILUS 1 xẩy ra khi lực
lượng Công an vũ trang Bắc Việt thay đổi lại mật mã. Thay thế hệ thống T90 với
hệ thống mã VQL thành VQ5. Đồng thời họ phát triển một loạt các quy định mới để
báo cáo những sự việc đáng quan tâm qua đài phát đến cơ quan chỉ huy của họ.
Dạng quy định mới này đã giảm bớt thời gian cần thiết để đưa thông tin đến nơi
thích hợp. Mặc dù không để lộ ý đồ, nhưng nó cũng giảm được thời gian phát song
biên phòng trên không trung. Điều ấy hạn chế khả năng những bức điện có thể bị
lộ.
Hệ thống
mật mã đó đã phát huy hiệu quả khi toán EUROPA khởi hành đến tỉnh Hoà Bình vào
ngày 20 tháng 2. Toán này đã bị bắt gần địa điểm đổ bộ vào ngày 22 tháng 2 và
nhân viên điện đài đã chấp nhận việc duy trì sự liên lạc ổn định mạng đài phát
của các toán gián điệp theo sự điều khiển của Hà Nội.
Vào tháng
3, toán ATLAS-dưới sự chỉ huy của điệp viên Trần Hữu Quang-trên một chiếc máy
bay vận tải tới Thái Lan. Toán này được chuyển sang một chiếc trực thăng đợi sẵn
để chở tới vị trí tập kết ở phía nam khu vực đổ bộ của toán EUROPA trong địa
phận tỉnh Khăm Muộn-Lào, tiếp giáp với biên giới Nghệ An-Việt Nam. Bốn điệp viên
bị một người nhìn thấy và đã báo cho bộ phận Công an vũ trang gần đó. Chỉ còn
lại hai người trong số họ sống sót và bị đưa ra trước vành móng ngựa vào ngày 5
tháng 4.
Trong khi
những người của toán ATLAS còn sống sót đang ở trong nhà tù tỉnh Nghệ An thì
toán REMUS dưới sự chỉ huy của Điêu Chính Ích đã được thả xuống vùng Tây Bắc của
Bắc Việt gần Điện Biên Phủ.
Họ đều
thuộc dân tộc Thái, đã từng sống ở khu vực này trước 1954 và được gởi trở lại
vào ngày 16 tháng 4.
Tính ra
thì toán REMUS đã hoạt động một cách an toàn trong thời gian hai tháng. Họ đã
gặp những người thân và đã báo cho Sài Gòn tiếp tế thêm. Trong lần thứ hai khi
họ đến nơi nhận hàng tiếp tế, có đem theo trang thiết bị đến địa điểm máy bay
thả hàng, họ đã bị một lực lượng vũ trang Bắc Việt rất đông bao vây. Các thành
viên trong toán bỏ chạy tán loạn, vứt bỏ tất cả các trang thiết bị kể cả máy
phát vô tuyến điện và mật mã. Người bị bắt đầu tiên là toán trưởng vào ngày 23
tháng 6. Những người giúp đỡ cũng đều bị bắt và bị tù tại một nhà tù cũ của Pháp
ở Sơn La.
Qua các thành viên của toán DIDO,
các điệp viên bị bắt đã biết được vụ bắt toán DIDO và buộc phải cộng tác trong
năm 1961. Một trong số những người sống sót của toán DIDO sau đó đã miêu tả vai
trò của toán DIDO về vụ toán REMUS bị thất bại như sau:
-Vào mùa xuân năm 1962 toán DIDO
được lệnh từ miền Nam ra hoạt động ở Điện Biên Phủ. Những bức điện đã được đánh
về Sài Gòn báo rằng chúng tôi đã hết lương thực rất cần được tiếp tế thêm. Toán
này đã di chuyển đến phía nam tỉnh Lai Châu và lấy hàng tiếp tế tại điểm mà toán
REMUS đã sử dụng để nhận đồ tiếp tế. Việc làm đó đã mang tai họa cho toán
REMUS.
Vào tháng 7, điệp viên Nguyễn Châu
Thanh được đưa vào đất liền bằng thuyền tại khu vực Hà Tĩnh. Lẽ ra anh ta đi với
toán NAUTILUS 3 nhưng cuối cùng anh ta được đi theo toán khác. Thanh cũng bị bắt
ngay khi mới lên bờ. Bốn thành viên của toán EROS đổ bộ vào Thanh Hoá ngày 20
tháng 5 đã nhanh chóng bị bao vây bởi các lực lượng an ninh biên giới hình như
đã được sắp đặt sẵn. Nhân viên sử dụng điện đài buộc phải hoạt động trong mạng
điện đài cùng với các nhân viên điện đài khác dọc theo suốt biên giới Bắc Việt
với Lào.
Khi toán REMUS đổ bộ vào Bắc Việt,
Đô đốc hải quân hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Adm. Harry D.Felt đã miêu tả hoạt
động yếu ớt trên biển của CIA rõ ràng là không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Đô
đốc Felt thậm chí còn hối thúc cần có một sự nỗ lực cao hơn để trả đũa lại Bắc
Việt về những vụ tấn công chủ yếu là do Việt cộng tiến hành ở Nam Việt Nam. Ví
dụ ông ta cho rằng một cuộc tấn công vào đường sắt ở Nam Việt Nam sẽ được giáng
trả bằng việc phá hỏng tuyến đường sắt từ Hà Nội đi biên giới Việt-Trung. Ông ta
cho rằng các toán biệt kích cần được đưa bằng tầu ngầm vào Bắc Việt, coi đó như
là một "ưu thế về kỹ thuật" của Mỹ chống lại cái mà "Bắc Việt không có khả năng
tự vệ". Mặc dù sự khuếch trương đó có thể giúp cho đẩy nhanh tiến độ, tạo ra sự
chuyển biến, nhưng lực lượng Hải quân Mỹ đang hoạt động với một ngân sách có
hạn. Chỉ có một số quan chức trong lực lượng hải quân có thể hứa hẹn đối với một
cuộc chiến tranh bí mật trên biển mà không cần đến sự tài trợ để hỗ trợ cho việc
huấn luyện và sắp xếp lại lực lượng của họ.
Tháng 7 năm 1962 Bộ trưởng Quốc
phòng Robert Mc Namara triệu tập cuộc họp gồm các quan chức Ngoại giao, Bộ Quốc
phòng và CIA để tranh luận về việc chuyển giao kiểm soát các hoạt động bán vũ
trang ở Việt Nam từ tay CIA sang Bộ Quốc phòng trong chương trình một năm được
gọi là "Chiến dịch quay trở lại". Đại tá George C. Morton, chỉ huy trưởng lực
lượng yểm trợ quân sự ở Việt Nam thuộc lực lượng chiến tranh đặc biệt đã kêu gọi
tăng cường sự can thiệp của lực lượng đặc biệt của Mỹ vào Việt Nam. Đại tá
Morton, người đã có một quá trình chỉ đạo ngầm các hoạt động ở Hy Lạp trong
những năm 1950, được nhìn nhận như là "một chuyên gia về chiến tranh đặc
biệt".
Tháng 9 năm đó, nhóm đặc biệt của
Hội đồng An ninh Quốc gia (5412) thông qua kiến nghị ủng hộ ý tưởng của đô đốc
Felt trước đây bằng việc đưa ra một khuyến nghị về vai trò tác dụng của các tàu
phóng ngư lôi và SEALS đối với các hoạt động ngầm chống Bắc Việt. Song những nỗ
lực ấy cũng không thể tạo ra vật chất đem lại kết quả ngay tức thời, vì thiếu
tàu ngầm và lính biệt kích.
Sự việc này dược diễn ra trong bối
cảnh các hoạt động ngầm chống Bắc Việt không ngừng mở rộng. Đây là nhiệm vụ mà
Hội đồng an ninh quốc gia giao cho CIA thực hiện theo chỉ thị NSCID 5412/2 để
tiến hành các hoạt động bán vũ trang. Về lý thuyết nó là cơ sở để phát triển các
toán gián điệp biệt kích ở trong lòng địch, ém sẵn lực lượng chờ chiến tranh
công khai và là biện pháp cần thiết cho việc mở rộng chiến tranh của Lầu Năm
góc. Những kinh nghiệm này được các sĩ quan OSS đúc rút từ chiến tranh thế giới
thứ hai ở Châu Âu mà có. Những người đó đang làm việc trong Bộ Quốc phòng, Bộ
Ngoại giao, CIA…
Những kinh nghiệm đó tuy đã được áp
dụng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng thành công còn phụ thuộc vào
một loạt các yếu tố và hoàn cảnh cụ thể mà người chỉ huy vận dụng nó. Rất nhiều
người trong số họ đã trưởng thành lên từ OSS, đó cũng còn là những cơ sở để CIA
vạch kế hoạch hoạt động sau Đại chiến thế giới thứ hai. Hiển nhiên, có ba điều
khác biệt, rất cơ bản cho thấy ý niệm này khó áp dụng ở Việt Nam, đó
là:
-Thứ nhất, các toán bán vũ trang đòi
hỏi sự hỗ trợ rộng lớn của các đồng minh chiến tranh. Ví dụ trong chiến tranh
thế giới lần thứ 2 các toán OSS ở Pháp và các nước bị Đức chiếm đóng chứ không
phải ở chính nước Đức. Bắc Việt Nam tất nhiên không phải là nước
Pháp.
-Thứ hai, việc làm mất tác dụng của
lực lượng phản gián đối phương chống lại các toán biệt kích đã đòi hỏi một khả
năng phán đoán nhạy bén để biết bằng cách nào và khi nào các lực lượng của đối
phương sẽ áp dụng. Trong chiến tranh thế giới thứ 2 việc bắt và kiểm soát các
điệp viên Đức được đưa tới nước Anh, cũng như hiểu biết về các kế hoạch hiện tại
và tương lai của tổ chức gián điệp đối phương, đã giúp cho việc đảm bảo thành
công của các nước Đồng minh trở lại lục địa Châu Âu. Chưa có một bằng chứng xác
đáng nào nói rằng điều đó đã xảy ra ở Việt Nam.
-Thứ ba, khả năng ngăn chặn và giải
mã của đối phương là vấn để mấu chốt đối với những thành công của các nước Đồng
minh chống lại Đức. Ở Việt Nam kết quả quan trọng hàng đầu của hệ thống thông
tin tình báo quân đội Mỹ gắn liền với các máy phát sóng công suất thấp của Bắc
Việt đã không xảy ra cho đến tận mùa xuân năm 1961 khi bộ phận nghiên cứu về
điện đài thứ 3 của quân đội Mỹ có mặt ở Sài Gòn. Vài năm sau, một sự may mắn cho
phép tình báo Mỹ mở được những mật mã tốt nhất của Hà Nội, nhưng đồng thời cũng
làm hạn chế cả khả năng của Mỹ trong việc thu thập và giải mã đối với bất kỳ một
bức điện nào của Bắc Việt.
Vì vậy, ý tưởng về một lực lượng
ngầm gồm các toán gián điệp đang hoạt động chỉ có thể tồn tại trong suy nghĩ của
những người ở Lầu Năm góc cho rằng họ đang tiếp quản cả mạng lưới điệp viên thực
thụ. Còn những quan chức của CIA thì đã nhận ra rằng các toán đó đang bị vô hiệu
hóa, và chính Hà Nội là những người đang kiểm soát các toán gián điệp đó. Họ
đang khuyến khích Washington đưa tiếp các toán khác vào, chứng tỏ đó là một ý
tưởng rất mơ hồ.
Trần Văn Minh, một trong những người
Nam Việt Nam đối lập với Gilbert Layton đã đưa ra những nguyên nhân thất bại khá
cụ thể. Anh ta cho rằng, vào thời điểm đó hầu hết các sĩ quan tình báo Mỹ đến
Việt Nam đều muốn chứng tỏ mình là người có thể đảo ngược tình thế một cách
nhanh chóng, nhưng họ lại không rnuốn đối mặt với những hậu quả tệ hại do hành
động của họ gây ra. Họ muốn ngay từ đầu gây ấn tượng mạnh với cấp trên để được
đánh giá tốt về năng lực và phẩm chất công tác.
Cũng như đối với những kết quả trong
hoạt động phản gián chúng tôi không có gì để nói về mình khi mà những toán gián
điệp đầu tiên tung ra miền Bắc không có kết quả. Phòng 25 là một bộ phận phản
gián của chúng tôi và họ làm rất ít việc. Họ quan tâm chủ yếu đến việc điều tra
về tiểu sử của những người được tuyển vào lực lượng bí mật. Phòng 25 có quá ít
người so với lực lượng bí mật khổng lồ mà chúng tôi đang gởi đi. Mỗi người trong
số họ đều cần có sự điều tra kỹ lưỡng. Bộ Nội vụ của Tổng thống Diệm đã không
làm gì và Cục tình báo Quân đội cũng không làm được gì hơn. Cũng như đối với lực
lượng cảnh sát, nhiệm vụ chính của họ là giữ gìn trật tự xã hội mà ngày đó có
bao nhiêu cuộc bạo loạn xảy ra.
Layton thừa nhận có khả năng điệp
viên của đối phương nằm trong lực lượng an ninh biên giới. Ông ta kể lại cách
nhìn nhận của bản thân và kinh nghiệm của trung tâm CIA về các hoạt động "trò
chơi" điện đài ở Lào:
-Năm 1963, một trong các toán của
chúng tôi bị bắt ở Attopeu, cực nam của Lào. Nhân viên điện đài của toán đó
chuyển đi một bức điện báo động cho chúng tôi biết rằng anh ta đang bị bắt buộc
phải truyền tin dưới sự kiểm soát của đối phương. Những người bắt anh ta là bộ
đội giải phóng Lào và các cố vấn Bắc Việt đã táo bạo bắt nhân viên điện đài đó
yêu cầu chúng tôi cung cấp đủ lương thực cho cỡ một tiểu đoàn, gấp mười lần số
lương thực mà toán đó cần. Điều đó đã giúp chúng tôi xác định ở đó có khoảng một
tiểu đoàn. Chúng tôi đã báo cho nhân viên điện đài biết chúng tôi sẽ đến cứu họ.
Chúng tôi liền cho máy bay bắn phá vào vị trí mà đối phương đóng quân, và kết
quả là toán đó đã trốn thoát đến sân bay Attopeu.
Ông đại sứ Mỹ ở Viên Chăn tỏ ra khó
chịu về việc toán biệt kích bị phát hiện, bởi vì chúng tôi không được phép có
mặt ở Lào-sau khi ranh giới Harriman (Harriman line) có hiệu lực vào mùa thu
1962 sau hoà ước Giơneve về Lào được ký kết.
Trong cơ quan của tôi và phần lớn
các cơ sở của cục tình báo đều phải giả định đã có người của đối phương xâm nhập
(trong các đối tác người Nam Việt Nam). Điều này có thể đúng trong hầu hết các
trường hợp. Khi tôi bắt đầu tuyển một nhân viên, có người nói: ông không sợ
trong số họ có Việt cộng cài vào mà ông phải trả công cho họ à? Tôi nói rằng có
khoảng 10%, nhưng tính ra thì người của chúng tôi đông hơn họ: chín chọi một cơ
mà. Người ta giải quyết khả năng này bằng cách kiểm tra các toán biệt kích: họ
chỉ được biết những gì cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, động viên họ để nếu cần
xả thân thực hiện nhiệm vụ mà thôi.
Layton thừa nhận rằng hiệu quả của
một chương trình bán quân sự sẽ trở thành vô nghĩa nếu mức độ xâm nhập của đối
phương cao hơn nhiều so với dự tính. Về sự có mặt của các chuyên gia phản gián ở
cơ quan CIA, Layton bình luận: “Tìm đâu ra những người như vậy? Chúng tôi được
sự giúp đỡ cần thiết đúng lúc, thực ra thì cũng có vài người nhưng không giúp gì
được nhiều”.
Dẫu cho trong thực tế có thể không
bị xâm nhập đi nữa thì cũng cần phải giả định là có thể bị xâm nhập và phải tiến
hành chống xâm nhập. Đó là phương thức duy nhất có thể làm. Bởi vì đối phương
cũng thành thạo như chúng ta thậm chí họ còn thành thạo, khôn khéo hơn chúng ta
nhiều lần. Ed Regan nói về giai đoạn chuyển tiếp này theo khía cạnh tác chiến
như sau:
- Cơ quan CIA chúng ta vừa làm việc
với lực lượng tình báo bí mật của ông Diệm lại vừa cố gắng giám sát những kẻ
muốn loại bỏ ông Diệm… Năm 1962 sự việc đã trở nên căng thẳng. Ông Diệm bắt đầu
kiểm soát các sĩ quan của chúng ta và những mối liên hệ của họ với phái đối lập
với ông Diệm… Trên cương vị Tổng thống, ông Diệm không chỉ chống lại Cộng sản và
phật tử, mà còn phải tranh đấu với các phe phái chính trị khác như Đảng Đại Việt
và Việt Nam Quốc dân Đảng nữa.
Ví dụ như Lou Conein có những mối
quan hệ với các nhóm như Việt Nam Quốc dân Đảng và thông qua Voòng A Sáng, một
chỉ huy cũ của lực lượng người Nùng ở vùng Đông Bắc của Bắc Việt, biết rằng mạng
lưới cũ của Sáng đã hoàn toàn bi phá vỡ. Từ những mối liên hệ của chúng tôi với
Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt, chúng tôi đề nghị Tổng thống Diệm đưa một số
người của Đại Việt ra miền Bắc để xác định xem lực lượng nào còn hoạt động ở đó.
Đại uý Ngô Thế Linh, sĩ quan phụ trách các hoạt động ở phía Bắc của đại tá Tung
có vẻ như nắm được các vấn đề đã cừ một số điệp viên cùng đi với các điệp viên
Đại Việt của chúng tôi. Sau đó thông qua nhân viên điện đài chúng tôi được biết
rằng Linh đã phân công một điệp viên vào trong nhóm chủ yếu là để theo dõi hoạt
động của CIA và Đại Việt. Nhóm đó trong thực tế đã không bao giờ được đưa ra
miền Bắc…
Một lần nữa với sự hỗ trợ của
Washington để mở rộng hoạt động trên tuyến đường sắt mà chúng tôi đã nêu ra,
khoảng cuối năm 1962 Tucker Gougelmann, chỉ huy trưởng căn cứ ở Đà Nẵng, và Cart
Jenkins, sĩ quan trù bị của chúng tôi tại trung tâm huấn luyện Hoàng Hoa Thám,
đã được bổ sung.
Russ Miller đã ra đi vào mùa xuân
1962 và W.T.Cheney, một người Châu Âu, đến thay. Tôi biết ông ta là một sĩ quan
xuất sắc trong những công việc được giao trước đây, nhưng ông ta lại quá thiên
về Châu Âu và không hiểu được phải làm thế nào để gần người châu Á. Lúc đó Bill
Colby đang ở Tổng hành dinh và ông ta đã bắt đầu luân chuyển các sĩ quan đến khu
vực Đông Nam Châu Á để mở rộng kinh nghiệm của họ. Đến bây giờ các hoạt động bán
vũ trang đã bộc lộ rõ rằng nó đã bị đối phương xâm nhập vào nhiều hơn là chúng
tôi nghĩ. Không một ai trong chúng tôi thuộc lực lượng bí mật đã báo cáo hết
những điều mà lẽ ra phải báo cáo các hoạt động xâm nhập đó cho Lầu Năm Góc như
chúng tôi đã biết. Đó là một tội lỗi.
Sự cần thiết của cơ quan CIA trong
việc theo dõi các lực lượng đối lập với Diệm dẫn đến việc mùa xuân 1962 tôi gặp
gỡ một số toán trên và kéo tôi ra khỏi các hoạt động bán vũ trang, trừ việc đi
Đà Nẵng để đánh ra Bắc. Larry Jackson lưu lại thêm một thời gian, sau đó ông ta
chuyển về Long Thành làm chỉ đạo viên kỹ thuật khi căn cứ này mở cửa lần đầu
tiên vào mùa xuân năm đó. Phải giải quyết thế nào trước một thực tế là tất cả
các nhóm phái đi đều bị bắt, và một số trong đó đã hợp tác với Bắc
Việt?
Regan đã nêu một câu hỏi mà dường
như không có câu trả lời:
-Sẽ có lý nếu như đặt câu hỏi phải
chăng tổn thất này là ngẫu nhiên hay do đã có sự tính toán trước? Xin nhớ rằng
các sắc tộc thiểu số là mối đe doạ lớn đối với Diệm, bởi vì họ đang đấu tranh dể
giành quyền tự quyết và chúng ta đã có những người trong lực lượng đặc biệt của
quân đội Mỹ cùng làm việc với họ. Vậy sẽ đem lại quyền lợi cho ai nếu như tất cả
họ bị bắt? Tất nhiên là cho Diệm. Nó sẽ là một sự suy đoán khi nói rằng chúng đã
được thoả thuận một cách có tính toán.
Nếu như các sĩ quan CIA ở Sài Gòn
không phát hiện ra sự xâm nhập của Hà Nội, thì câu hỏi ở đây là tại sao? William
R. Johnson nguyên trưởng trung tâm CIA ở Viễn Đông đã đưa ra lời nhận xét
sau:
- Các hoạt động của cơ quan tình báo
được đưa ra tranh luận ở đây thực sự không có sự kết hợp với bất kỳ công tác
phản gián nào và không được phối hợp với bất cứ hoạt động phản gián nào đang
được tiến hành ở các bộ phận trong cơ quan tình báo hoặc của các bộ phận khác
trong chính phủ…
Không có hoạt động phản gián nào để
đảm bảo an ninh kể cả các hoạt động chống lại Bắc Việt. Vấn đề an ninh không
được coi trọng của trung tâm, hoặc việc xâm nhập của chính phủ Nam Việt Nam. Vào
khoảng năm 1965, khi John Hart tiếp nhận trung tâm ở Sài Gòn, ông ta nói với tôi
rằng ở đó không có hoạt động phản gián rõ nét-chỉ là "hữu danh vô thực" mà
thôi.
Bill Johnson quy kết cho William
Colby như là nguyên nhân của vấn đề và miêu tả những khía cạnh hoạt động rời rạc
của CIA đang được chuyển giao cho Lầu Năm góc.
Sự thật là các trung tâm và các sĩ
quan của chúng ta ở Viễn Đông với các bộ phận nghiên cứu ở Washington đã thổi
phồng kết quả việc tuyển lựa bằng bất cứ phương tiện nào, bao gồm các hoạt động
tiếp xúc và các điệp viên là những người điều hành được tài trợ với những động
cơ chính trị hơn là đã tuyển chọn một cách giấu giếm và kiểm soát sự xâm nhập
vào các mục tiêu của đối phương. Việc đảm bảo an ninh cho hoạt động tình báo
mang tính máy móc như tin tưởng vào các điệp viên có triển vọng, dựa vào kiểm
tra tên tuổi của họ qua quá trình hoạt động, thậm chí sử dụng máy kiểm tra nói
dối ở địa bàn châu Á là hoàn toàn không thích hợp.
Russess Holmes, nguyên sỹ quan phản
gián của CIA, lặp lại những quan điểm tương tự về giai đoạn này:
- Việt Nam không được nhìn nhận như
là một sự đe doạ ở mức độ cao về mặt phản gián vào thời điểm đó. Phần lớn những
gì chúng ta biết về Cộng sản Việt Nam là thông qua người Pháp trong đó có rất ít
điều đáng được quan tâm về phản gián thực sự. Dù sao thì cuối cùng Đông Dương
vẫn là của họ.
Liệu có phải các hoạt động của chúng
ta đã bị xâm nhập trong suốt cả giai đoạn đó không? Rõ ràng là có. Tại sao? Sự
thất bại mới chỉ nhấn mạnh đối với công tác phản gián ở khía cạnh hoạt động bí
mật. Sự bất đồng giữa các lực lượng ủng hộ công tác phản gián và chống đối nó
mới là mâu thuẫn có tính đối địch trong các hoạt động của CIA ở Việt Nam. Có thể
khẳng định rằng các sĩ quan ở phòng Viễn đông không sốt sắng gì trong việc áp
dụng các biện pháp chuẩn mực về phản gián. Bởi lẽ những người lãnh đạo ở đây
thực sự đã không quan tâm tới hoạt động phản gián.
Căn cứ vào thông tin do các điệp
viên bán vũ trang (người Việt) cung cấp chúng ta đã tung các toán gián điệp ra
miền Bắc vào đầu những năm 1960. Đây là hoạt động chính của phòng Viễn Đông dưới
thời William Colby và thực sự đã bị những người cộng sản phát hiện ngay khi mới
bắt đầu. Điều muốn nói là họ đã xâm nhập cả vào miền Nam mà chúng ta không hay
biết hoặc vẫn làm ngơ nên phải gánh chịu hậu quả.
Các toán được đánh ra miền Bắc năm
1962 phần lớn là người dân tộc thiểu số được tuyển lựa từ quân đội Nam Việt Nam
năm 1961. Số này được tuyển chọn trong nhiều nguồn: họ là những người vượt tuyến
từ Bắc vào, những người di cư, những người trước đây sống ở miền Bắc rồi sang
sinh sống ở Lào… Tuy nhiên lực lượng để tuyển chọn ngày càng khó kiếm những
người tự nguyện tham gia vào các hoạt động xâm nhập của miền Nam chưa kể đến các
hoạt động mở rộng qua biên giới sang Lào.
Một điệp viên cũ đã nói về giai đoạn
này như sau:
-Tôi không cho rằng không có toán
biệt kích nào thành công cả. Thực tế có những toán đã xâm nhập vào và rút ra an
toàn, nhưng đó chỉ là những toán có nhiệm vụ hoạt động chớp nhoáng gây rối ở
phía Bắc khu vực phi quân sự. Còn hoạt động trên phạm vi rộng và trong thời gian
dài ở các vùng xa thì hầu như hoàn toàn thất bại. Cũng tương tự như các hoạt
động gián điệp. Điều đó thật có ý nghĩa nếu như người ta chịu suy nghĩ nghiêm
túc về nó. Những toán đó thực sự đáng lo ngại nhất vì dễ dàng bị loại khỏi vòng
chiến. Còn những toán khác không cùng chịu chung số phận thì lại bị bỏ
rơi.
Trần Quốc Hùng một điệp viên cũ cũng
nói rõ ý kiến của mình về giai đoạn đó. Khoá đào tạo của anh ta gồm một số môn
cơ bản chung, một phần nghe về học thuyết của Đảng Cần lao. Anh ta không được
đào tạo về các hoạt động dành riêng đối với miền Bắc. Một trong những nhiệm vụ
đầu tiên của anh ta là xâm nhập vào hàng ngũ sinh viên ở Sài Gòn và thu thập
thông tin về các hoạt động chống chính quyền Diệm. Từ việc huấn luyện này và qua
các hoạt động gián điệp ở Nam Việt Nam, Hùng đã biết rằng tổ chức của bác sĩ
Tuyến đã tiến hành công tác tình báo chính trị nội bộ song song với hoạt động
tình báo đối ngoại. Hùng đã kể lại việc xâm nhập của anh ta ở miền
Bắc:
-Năm 1962, tôi được chiếc tàu xâm
nhập đưa ra miền Bắc . Tôi rời Đà Nẵng và được đưa vào bờ tại tỉnh Hà Tĩnh. Đây
là sai với địa điểm định đổ bộ và nơi cần đến. Sau đó tôi ra Hà Nội, tôi luôn lo
sợ rằng họ đã biết sự xuất hiện của tôi. Tôi có ấn tượng dễ bị lộ và có cảm giác
bị theo dõi ngay từ khi tới Hà Nội. Tôi không biết vì sao họ lại biết được tôi,
nhưng có một cái gì đó như là một sự sắp đặt sẵn ở mọi nơi hoặc có kẻ nào đó đã
bán đứng chúng tôi giúp cho họ phát hiện được tôi một cách rất nhanh chóng. Họ
theo dõi ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên với những linh mục tại một nhà thờ, vì họ
đã từng làm cho Pháp trước 1955.
Willíam Colby, trưởng trung tâm CIA
ở thời điểm Hùng được đánh ra miền Bắc đã lập luận rằng: trung tâm CIA ở Sài Gòn
đánh giá thấp về khả năng thực tế của những hoạt động đó. Colby giải thích
thêm:
-Tôi không biết người Pháp chuyển
giao họ thế nào nhưng nếu quả như vậy thì một số người Việt Nam có thể nghi ngờ
đối với người Pháp, bởi vì họ bị choáng váng về người Pháp. Họ tin rằng người
Pháp đang tiến hành một số chính sách ở đó, nhất là Ngô Đình Nhu. Ông ta thường
tìm kiếm sự vận động của người Pháp trong một số sự việc. Tất nhiên là ông Diệm
rất trung thành với đạo Thiên chúa cùng các linh mục, và tin tưởng rằng có thể
dựa vào họ được. Đó là phép thử của ông ta. Và như là kết quả của một số linh
mục trong việc tổ chức các nhóm tự vệ thuộc cộng đồng của họ. Điều đó dường như
rất có khả năng là người của Diệm sẽ liên hệ với các linh mục Thiên chúa ở ngoài
ấy bởi họ có một niềm tin nhất định. Và những người Thiên chúa giáo vẫn bị coi
là không được tin cậy dưới chế độ Cộng sản ở Bắc Việt.
Khi được hỏi rằng liệu ngoài đó còn
những cơ sở của người Pháp vẫn có tác dụng sau 1955 không? Colby đã nhấn mạnh
thêm:
-Tôi nghĩ rằng các việc chúng ta đã
tiến hành ở miền Bắc đều đã bị tiêu tan. Tôi không muốn nhắc lại là chúng ta đã
có bao nhiêu đầu mối ở ngoài ấy. Tôi hoàn toàn tin rằng chúng ta đã không làm
được điều đó. Chúng ta có thể có một số ý kiến về sự đồng cảm nếu các bạn đến
đấy và tiếp xúc với họ. Điều đó lẽ ra đã không còn tồn tại trong cộng đồng những
người di cư và mối liên hệ của Diệm đối với cộng đồng Thiên chúa
Giáo.
Hùng đã không tán thành. Theo Hùng
thì người Mỹ đã đào tạo cho anh về hoạt động tình báo và dựng nên những câu
chuyện ngụy trang để sử dụng khi anh ta đến gặp các linh mục ở Hà Nội. Người Mỹ
đã chỉ dẫn cho anh ta từng trường hợp một, trong khi người Việt Nam chỉ có nhiệm
vụ dịch lại cho anh ta nghe. Hùng nói tiếp:
- Tôi nắm rõ về địa bàn xâm nhập như
trong lòng bàn tay. Qua các chuyến bay trinh sát, các sĩ quan huấn luyện CIA đã
treo đầy cả bức tường với các tấm ảnh chụp từ trên không về địa điểm tôi sẽ đổ
bộ tới Hà Nội. Chi tiết đến mức không thể tưởng tượng được! Tôi không biết bằng
cách nào họ có thể chụp được những tấm ảnh như vậy, nhưng rõ ràng những tấm ảnh
ấy là có thực và chi tiết đến mức có thể đếm được từng người ở trên
tàu.
Hình như các điệp viên của chúng tôi
đã bị đón lõng trước khi họ được tung vào miền Bắc. Họ luôn luôn được những
người ở trên đất liền chờ đón. Nếu có điệp viên nào đó đã vào ra trót lọt thì ta
có thể đặt câu hỏi là liệu đó có phải là họ không cần phải làm gì nữa không, vì
đã biết rất rõ mọi điều rồi.
Những người theo đạo Thiên chúa đã
thổi phồng lên rằng hệ thống nhà tù của Hà Nội vào những năm 1962 đã giam giữ
nhiều người được gọi là lợi dụng đạo Thiên chúa. Một cựu tù nhân đã từng bị giam
giữ miêu tả bầu không khí ngột ngạt lúc đó và vai trò của ông ta trong việc tạo
nên bầu không khí đó. Ông ta ngồi khom lưng nhìn ra một phía và cao giọng kể lể:
"Tất nhiên là các anh đúng. Quả thật lúc ấy tôi có mặt ở đó. Đây là một cơn ác
mộng. Các anh phải có mặt ở đó thì mới hiểu hết được”, giọng anh ta vang xa
trong khi anh ta ngồi ở mép giường, đôi tay ôm lấy ngực.
Tên của tôi đã có sẵn ở trong danh
sách. Tôi bị bắt năm 1955 khi tôi cố gắng vượt qua sông Bến Hải. Họ đã biết rõ
tiểu sử của tôi. Không phải chỉ là tôi đã không gắn bó với Nhà nước nên đã bỏ
trốn mà còn vì tôi là một linh mục mới vào nghề. Điều đó đã làm cho tôi tự nhiên
trở thành kẻ thù của Đảng. Các cán bộ an ninh nhà nước từ Bộ Công an ở Hà Nội đã
đến gặp tôi vào năm 1960. Tôi trở lại Hà Nội sau ba năm học tập cải tạo về tội
trốn vào Nam. Họ biết tôi có dính líu tới các hoạt động Thiên chúa giáo ở Hà
Nội. Họ có thể bắt giam tôi bất cứ lúc nào. Nhưng họ lại ban ơn cho tôi. Họ nói
rằng họ chỉ muốn tìm ra ai là kẻ chủ mưu gây rối thôi. Họ nói có những "lực
lượng thù địch nước ngoài" đang cố gắng gây hại. Đấy tất nhiên là những phần tử
tội phạm đang muốn lợi dụng sự mất ổn định. Họ có nhiều lý do để chứng minh điều
ấy. Họ chỉ cần tôi theo dõi sát những gì đang xẩy ra. Vì vậy tôi đã làm việc cho
họ.
Hàng tháng tôi có một cuộc gặp gỡ
với cán bộ an ninh Nhà nước thuộc bộ phận an ninh của Hà Nội, bộ phận chuyên
trách theo dõi các nhà thờ Thiên chúa giáo. Chúng tôi gặp nhau trong một khách
sạn đối diện cửa ra vào phía Đông cửa ga Hà Nội. Các cuộc gặp gỡ của chúng tôi
thường ngắn gọn. Tôi nói cho họ biết tôi đã đi đâu, gặp ai, các linh mục đang
làm gì, những người dân xứ đạo làm gì và nói gì.
Sự việc đó diễn ra cho đến năm 1962.
Khi Sở công an Hà Nội đã bắt hầu hết các linh mục, tu sĩ theo sắc lệnh tập trung
cải tạo. Còn những người chưa bị bắt thì tiếp tục bị giám sát. Tôi nói với cán
bộ an ninh người mà tôi đã từng tiếp xúc rằng tôi không thể tiếp tục làm việc
cho ông ta được nữa. ông ta chỉ mỉm cười và nói rằng tôi sẽ thay đổi ý nghĩ đó.
Vài tuần sau họ trở lại gõ cửa phòng tôi trước khi trời sáng. Họ gồm vài nhân
viên cảnh sát, một quan chức địa phương. Tôi bị còng tay và họ kéo tôi ra giữa
một ngõ hẹp, họ đọc cho tôi nghe một bản án. Bản tuyên án đó nói rằng tôi bị
phát hiện là có tham gia vào các hoạt động phá rối trật tự xã hội và bị bắt giam
tại nhà giam của Sở Công an Hà Nội để thực hiện sắc lệnh tập trung cải
tạo.
Tôi rất bực mình! Tôi đã cộng tác
với họ hơn hai năm và để rồi bị bắt. Những điều tôi làm cho họ là không đáng kể.
Thật không có gì đáng kể. Tôi muốn nói rằng việc báo cáo tin cho họ chưa làm cho
ai bị chết cả.
Giọng của ông ta trầm xuống và im
lặng, đôi tay ôm lấy ngang người rồi duỗi ra phía trước, đưa về phía sau như là
làm động tác thư giãn. Ông ta nói tiếp sau một hồi suy nghĩ: lệnh bắt tôi không
ghi rõ thời hạn giam giữ. Sau đó tôi được biết rõ là 3 năm. Đúng là một trò
cười. Tôi đã phải lao động khổ cực ở trong tù 15 năm, phần lớn là ở Phong Quang
và Tuyên Quang. Tôi ra khỏi tù năm 1977 khi họ bắt đầu trả tự do cho một số linh
mục.
Tôi hỏi ông ta: “Ông còn nhớ những
gì về 15 năm đó không?".
"Nhớ?". Ông ta ngừng một lúc. "Nhớ
gì à? Sự đau đớn..."
Một tháng trước ngày toán REMUS nhảy
dù xuống khu vực biên giới Lào-Bắc Việt Nam, toán TOURBILLON được tập trung tại
Sài Gòn để chuẩn bị cho nhiệm vụ của toán xâm nhập vào tỉnh Sơn La, về phía đông
của toán REMUS. Đại uý Triết đã gặp riêng Vàng A Giong, nhân viên điện đài của
toán TOURBILLON để hướng dẫn anh ta việc sử dụng điện đài và giao cho anh ta bộ
mã của toán.
Giong nhận thấy bộ mã này cùng dạng
với loại mà anh ta đã sử dụng nhiều năm trước đây, đó là loại mã một tầng. Đồng
thời anh ta cũng được giao một tín hiệu nhận diện cá nhân, một nhóm năm chữ số,
và được chỉ định đưa vào nhóm thứ ba của bức điện. Điều đó sẽ giúp cho Sài Gòn
xác nhận được rằng đúng anh ta là người đang đánh bức điện đó.
Đại uý Triết yêu cầu: "Không được
ghi lại bất cứ cái gì. Anh phải nhớ lấy". Đêm hôm ấy Giong đã ghi lại tín hiệu
riêng đó ở ngoài bìa cuốn sổ hướng dẫn sử dụng tín hiệu.
Mấy năm sau, Giong giải
thích:
-Các ông phải hiểu cho tôi. Tôi sợ
sẽ quên mất… nếu điều đó xảy ra , tôi biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ được
tiếp tế bởi vì tôi không thể chứng minh rằng tôi đang phát đi những bức điện.
Tôi không tin vào trí nhớ của tôi. Vì vậy tôi đã ghi lại, chính điều đó đã làm
hại tôi và tôi đành để cho điều có hại đó tiếp tục diễn ra.
Tôi tham gia quân đội năm 1960 và
được chỉ định vào nhóm quan sát đầu tiên ở Nha Trang. Đó là thời gian đại tá
Trần Khắc Kinh (phó của đại tá Tung) bắt đầu đưa các toán xâm nhập vào Lào hợp
tác với người H'mông dưới sự chỉ đạo của Vàng Pao. Trong đó có 10 toán của chúng
tôi, mỗi toán 15 người. Tôi là nhân viên điện đài của toán số 9. Khoảng năm 1961
tôi đã đánh đi 5 bức điện qua biên giới…
Vào năm 1962 tôi được chuyển về Sài
Gòn và tham gia vào toán TOURBILLON làm nhân viên điện đài. Tôi học một khoá
huấn luyện một tháng, chủ yếu là gài mìn và chiến thuật.
Ngô Thế Linh tập hợp chúng tôi lại
và nói là chúng tôi sẽ xâm nhập vào tỉnh Sơn La, Bắc Việt Nam. Ông ta giải thích
rằng họ đã đưa một toán vào Sơn La năm 1961. Toán đó có tên gọi là CASTER. Toán
CASTER đã báo cáo về Sài Gòn là đã đến nơi an toàn và trụ vững được. Trong năm
đầu họ đã phát triển được cơ sở và tuyển chọn được nhiều người làm việc cho họ.
Nhưng dù sao thì toán của họ cũng không đủ sức để phát triển cơ sở và huấn luyện
cho nên phải điện về Sài Gòn yêu cầu giúp đỡ. Nhiệm vụ của toán chúng tôi là
tăng cường cho toán CASTER và huấn luyện cho họ. Đồng thời chúng tôi tiến hành
việc trinh sát dọc theo tuyến đường 41 (con đường mà sau này họ đổi tên là đường
số 6 chạy từ Sơn La đến Sầm Nưa của Lào) kiêm cả nhiệm vụ phá huỷ 17 chiếc cầu
dọc theo đường 6 sau khi chúng tôi đến nơi hoạt động. Tôi không hiểu tại sao họ
lại muốn chúng tôi thực hiện một phần nhiệm vụ đó.
Ông Linh nói với chúng tôi rằng
không có gì đáng ngại. Toán CASTER đang đợi chúng tôi và mọi thứ đều an toàn.
Chúng tôi không được biết gì hơn về lực lượng của đối phương ở đó và cũng không
có ai nói rõ là chúng tôi phải làm gì nếu bị bắt. Ông Linh và sĩ quan điện đài
của toán Pang chỉ nói rằng không có gì phải lo. Toán CASTER đang ở đó, toán
CASTER vẫn an toàn, và toán CASTER sẽ bảo vệ cho chúng tôi.
Bây giờ, nhìn lại những gì đã xảy ra
32 năm trước đây và những gì đang xảy ra thật rõ ràng rằng không một ai ở Tổng
hành dinh có ý kiến gì về việc chúng tôi phải đương đầu với miền Bắc. Tôi cho
rằng chúng ta không có hoạt động tình báo thật sự ở ngoài Bắc và chúng ta cũng
giống như toán CASTER, thậm chí đã dựa vào những tấm bản đồ cũ kỹ mà người Pháp
đã sử dụng trước 1954. Vào năm 1962, mọi thứ đã thay đổi cả rồi. Nhược điểm lớn
nhất là không một ai hiểu rõ được kết quả công tác phản gián của Bắc Việt
Nam.
Ngày 16 tháng 5 năm 1962, chúng tôi
đã bay đến đó trên một chiếc máy bay vận tải của Mỹ với phi hành đoàn người Đài
Loan. Chúng tôi nhảy dù vào khoảng nửa đêm và phát hiện thấy có người đang đợi
dưới mặt đất. Nhưng không phải là toán CASTER đón chúng tôi, mà là những người
miền Bắc Việt Nam.
Nhưng người miền Bắc đã bao vây xung
quanh chúng tôi khi vừa tiếp đất, một vài người trong số chúng tôi đã kịp chạy
trốn nhưng chỉ được một vài ngày. Tôi tính sẽ huỷ quyển mật mã nhưng tôi biết
rằng nếu làm như vậy sẽ không thể liên lạc được với bất cứ ai. Sau đó họ bắt
được tôi và phát hiện ra tài liệu tôi mang theo. Đó là lý do tại sao họ biết
được tín hiệu riêng của tôi.
Tại sao tôi lại cộng tác với họ? Họ
đã cố gắng làm cho tôi nghĩ rằng tất cả như vậy đã kết thúc. Và tôi đã phải chọn
lựa giữa việc cộng tác với họ để sống sót hoặc là bị thủ tiêu kể cả toán CASTER.
Vì vậy tôi phải nhận cộng tác với họ và cho điện đài tiếp tục hoạt động. Đây là
cách duy nhất mà tôi có thể thoát chết. Nó cũng chính là suy nghĩ của tôi lúc
đó. Mừời một ngày sau khi chúng tôi nhảy dù, tôi đã chuyển bức điện đầu tiên về
Sài Gòn. Tất nhiên đó không phải là bức điện thực của chúng tôi mà là những điều
Hà Nội muốn điện cho Sài Gòn.
Tôi ở đó sử dụng điện đài trong hai
nămtrước khi toán COOTS đến thay thế. Đó là lúc tôi được đưa về trại giam Thanh
Trì-nơi họ giam giữ các toán bị bắt.
Trong hai năm ở Sơn La. Tôi bị giam
giữ trong một nhà giam của tỉnh. Đến giờ chuyển điện đi, tôi được đưa đến một
làng hẻo lánh ở trên núi là nơi tôi phát điện đi báo cho Sài Gòn biết rằng chúng
tôi đang hoạt động. Một tay tôi được tự do còn tay kia bị khoá vào một thứ gì đó
ở xung quanh. Tôi là một nhân viên điện đài giỏi khi tôi mới ra miền Bắc, thường
thì tôi phát điện đi rất nhanh. Nhưng sức khoẻ của tôi sút kém đến nỗi mà tôi
chuyển điện đi quá chậm, điều đó làm cho Sài Gòn lo ngại. Tôi đoán rằng họ chẳng
thể kiểm tra lại điều đó.
Các cán bộ phản gián của Bộ Công an
rất tử tế. Họ chỉ cần một người ở đó quản lý tôi, lắng nghe mọi thứ tôi chuyển
đi và đó là điều mà ai cũng có thể hiểu được. Thậm chí nếu Sài Gòn phát hiện
được Bắc Việt Nam đã bắt được chúng tôi thì họ sẽ không bao giờ nghe được một
điều gì cả. Xin để cho tôi được giải thích:
Sài Gòn chuyển một bức điện ra,
nhưng chúng tôi không bao giờ phải trả lời ngay lập tức. Sau phiên phát chuyển
điện, tôi được đưa trở lại phòng giam và cán bộ quản lý tôi sẽ đi về Hà Nội. Họ
giải mã bức điện và vạch ra điều mà họ sẽ làm trong đợt tới. Sau khi tôi bị bắt,
tôi chưa bao giờ được tiếp cận quyển mật mã của tôi; họ giữ tất cả và tôi chỉ là
người thu phát những bức điện chuẩn bị sẵn. Khi trả lời những bức điện nhận được
theo yêu cầu của Sài Gòn, viên sĩ quan đó đến và đưa tôi ra khỏi nhà tù tới nơi
phát điện đi. Tôi đợi cho đến giờ mở máy và tới lúc ấy mới được cho biết mật mã
của bức điện để chuyển đi. Khi kết thúc phiên làm việc tôi lại trở về nhà giam.
Các ông biết đấy, nếu tôi chuyển một
bức điện trả lời ngay lập tức thì sự việc sẽ khác đi, nhưng mọi việc lại được
tiến hành quá chậm chạp nên cán bộ cục phản gián của Bộ Công an có thừa thời
gian để vạch kế hoạch trả lời. Hiển nhiên là những người canh giữ tôi không có
quyền đưa ra những quyết định. Họ phải về Hà Nội để nhận chỉ thị và họ không cần
phải sử dụng điện đài. Họ dùng xe tải để đi lại. Sự việc đó diễn ra trong vòng
hai năm và chúng tôi chưa bao giờ được tiếp tế trong suốt thời gian đó. Khi tôi
nghĩ lại việc này, đó là một việc làm thật khó chịu. Nếu có ai đó hỏi rằng chúng
tôi phải làm một điều gì đó ngay lập tức, chuyển và nhận nhiều bức đi và đến
thường xuyên hơn thì sẽ là những rắc rối cho họ. Tôi không biết Sài Gòn nghĩ gì
và tại sao họ lại không nghĩ rằng thực tế Hà Nội đang điều khiển chúng tôi. Các
ông hiểu cho, thậm chí nếu chúng tôi đổ bộ an toàn và không bị bắt thì tôi tin
rằng rồi họ cũng sẽ phát hiện ra thôi. Bởi vì chúng tôi dùng bộ mã của quân đội
Nam Việt Nam nên bất cứ một nhân viên điện đài nào của Bắc Việt thu được họ cũng
sẽ biết ngay đó là máy phát sóng của đối phương. Nhưng Ngô Thế Linh lại nói với
tôi rằng khi tôi phát điện đi thì người ta sẽ thu được bởi vì nó cùng tần số với
hạm đội 7 của Mỹ, các nhân viên tình báo ở Nhật Bản và Philipin giám sát. Hà Nội
chắc chắn cũng chẳng xa lạ gì.
Cuối năm 1962 toán TOURBILLON báo
cáo đã thực hiện việc phá cầu vào ngày 24/9 và vào ngày 9/12. Toán ARES báo cáo
đã tuyển chọn thêm 6 điệp viên. Các cuộc tấn công của toán TOURBILLON chưa hề
xảy ra nhưng họ định tạo ra một ấn tượng là toán đó thực hiện một cách năng động
nhiệm vụ của mình. Đối với các điệp viên của toán ARES đây là một sự sáng tạo
của họ từ Hà Nội.
Ngày 28/6, thuỷ thủ đoàn NAUTILUS 2
đã rời Đà Nẵng để thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoáng do những người nhái
tiến hành tấn công vào những chiếc tàu tuần tiễu thả neo ở cửa sông Gianh. Đến
địa điểm hành động, những người nhái nhanh chóng lặn xuống nước, nhưng một trong
những thiết bị phá nổ của họ bị nổ sớm, giết chết một người nhái. Vụ nổ đã trực
tiếp báo động cho lực lượng an ninh địa phương. Họ đã đuổi theo thuỷ thủ đoàn N2
và đánh đắm chiếc tàu trước khi toán N2 kịp đưa tàu của mình quay trở lại vĩ
tuyến 17. Các sĩ quan CIA ở Đà Nẵng đã giám sát những sự kiện đó nhưng không thể
hỗ trợ được gì. Hai người nhái thoát chết và bị bắt, trong đó có Lê Văn Kinh chỉ
huy của N2. Ngoài số thuỷ thủ đoàn của toán N2 bị bắt còn có một người nhái khác
được cử từ Đà Nẵng ra vào ngày hôm sau mới phát hiện thấy còn sống ở ngoài
khơi.
Một toán gồm 7 người được gọi là
toán LYRE, đã đổ bộ vào Hà Tĩnh vào trong tháng 12. Toán này đã hai lần cố gắng
nhảy dù xuống, nhưng chiếc máy bay vận tải Đài Loan đã phải bay lượn mãi vì súng
phòng không bắn gắt gao. Nhiệm vụ của toán LYRE là thực hiện trinh sát trạm ra
đa ở Đèo Ngang và tiêu diệt trạm ra đa này cũng như những kho chứa lương thực ở
địa phương.
Trong bức điện đầu tiên gửi về Sài
Gòn Nguyễn Quy tổ trưởng điện đài của toán đã báo cáo họ đến nơi aa toàn. Nhưng
anh ta báo cho biết rằng khu vực đó không an toàn và yêu cầu được chuyển đến khu
vực khác. Sài Gòn trả lời là phải giữ nguyên vị trí và đợi lệnh. Trong những
ngày đó, toán này đã bị hai đơn vị an ninh địa phương bao vây chặt.
Hài thành viên trong toán LYRE, Trần
Nghiêm và Nguyễn Ly bị chết trong một trận đánh nhau ác liệt. Các thành viên còn
lại của toán đã bị bắt khi họ cố gắng chạy trốn về phía Nam Quảng Bình. Toán
trưởng Lê Khoan bị xử tử sau vụ bắt đó như là một sự trả đũa vì những thiệt hại
của phía bên kia.
Vấn đề của các toán đổ bộ xuống một
nơi mà không đúng với dự kiến đã được tính đến, ít nhất theo Trung tá William
Mc. Lean, người theo dõi các hoạt động ở Lào trong suốt giai đoạn này đã giải
thích rằng:
- Điều tai hại nhất là các tấm bản
đồ đáng nguyền rủa mà vẫn phải sử dụng. Đó là những tấm bản đồ cũ từ thời Pháp,
và chính nó đã tạo nên những sự rắc rối. Các ông biết đấy, người Pháp bắt đầu hệ
thống bản đồ thế giới của họ lấy trung tâm ở Pari chứ không phải ở London như
chúng ta. Hệ thống bản đồ của người Pháp cũng không được tỷ mỷ ở Lào và Việt Nam
mà cách đến nửa vòng trái đất, có sự sai lệch vào khoảng 3000 m so với những tọa
độ trên bản đồ của chúng ta với cùng một điểm căn cứ vào toạ độ trên bản đồ
Pháp. Vì vậy, nếu đánh dấu một địa điểm căn cứ vào bản đồ của Mỹ nhưng chọn các
điểm đến và trong thực tế lại chỉ dùng bản đồ của Pháp thì kết quả sẽ thế nào,
nếu không phải là sự rắc rối phiền toái lớn, và tin chắc rằng mình đang so sánh
những quả táo với những quả cam. Tôi không gặp phải những rắc rối đó ở Lào, vì
tôi có hai bộ bản đồ và có thể tin chắc rằng tôi đã để ý đến sự so sánh
ấy.
Nếu có một người Mỹ nào đó nói về
việc toán của anh ta xác định một toạ độ như vậy và không nhận rõ rằng toán của
anh ta sử dụng bản đồ Pháp thì nhất định toán đó sẽ đi quá 3 km địa điểm mà họ
dự định sẽ tới.
Đầu năm 1962 hiệp định Gơnevơ về Lào
được ký kết. Hầu hết lực lượng bán vũ trang được đưa ra khỏi Lào.
Khi toán LYRE đang đến gần giai đoạn
kết thúc khoá huấn luyện thì thiếu tá Lê Văn Bưởi nhận được một bức điện của Ngô
Đình Cẩn qua một điệp viên ở địa phương của Bưởi tại Hòn Gai. Bức điện đó ra
lệnh cho Bưởi phải quay trở về miền Nam. Bưởi kể lại những ngày còn được tự do
cuối cùng của mình:
- Tôi đến Đồng Hời vào ngày 22 tháng 10 và chờ đợi
người ta đem thuyền đến đón. Tôi được hướng dẫn là đợi ở một quán cà phê nhỏ và
sẽ có một người đến đón kèm theo tín hiệu nhận biết và sẽ đi vào Huế cùng với
họ. Tôi chờ đợi nhưng không có ai tới cả. Ngày 23 tôi quay trở lại quán
cà phê đó lần thứ 2. Có thể là kế hoạch này được vạch ra trước rồi sau đó việc
đưa những chi tiết trong bức điện là do ông Cẩn nghĩ ra. Tôi vừa mới vào quán và
ngồi xuống thì có mấy nhân viên cảnh sát bước vào và đi thẳng đến chỗ tôi
ngồi.
Họ hỏi: "Anh có phải là Lê Văn
Bưởi?"
Họ đã biết rõ câu trả lời của tôi là
thế nào rồi nên cũng không cần đóng kịch làm gì.
Tôi trả lời: "Vâng,
đúng".
Họ nói bằng một giọng nhẹ nhàng:
"Xin mời đi theo chúng tôi".
Họ đưa tôi ra khỏi quán cà phê và
đưa thẳng về nhà biệt giam. Họ có một nhóm thẩm vấn hỏi tôi mấy tháng liền. Và
thường làm việc vào giữa đêm. Tôi không nghĩ là những người tù khác ở Đồng Hới
biết được sự có mặt của tôi ở đấy.
Sau đó họ đưa tôi tới gặp một số sĩ
quan cấp tá. Trong số ấy có giám đốc ban an ninh của tỉnh, cán bộ phụ trách nhà
giam và một người giới thiệu là trung tá cán bộ Công an từ Hà Nội
vào.
Viên trung tá đem theo một phong bì
to được gắn xi, ông ta mở chiếc phong bì đó và lấy ra một xấp ảnh của những
người như Ngô Đình Cẩn, Nhu, Tuyến… và một xấp mật mã, một số bức
điện.
"Tôi biết anh là ai rồi, chúng tôi
biết anh đến đây vào mùa hè năm 1961 và làm việc cho ai. Đây, anh hãy đọc bức
điện này...".
Đó chính là bức điện đã nhận được do
Ngô Đình Cẩn gửi ra trước đây mấy tuần yêu cầu tôi quay trở về Nam Việt Nam.
Nhưng dù sao tôi cũng biết được đó không hoàn toàn là bức điện vì nó thiếu tín
hiệu nhận biết của Ngô Đình Cẩn. Điều ấy cho tôi hiểu rằng họ đã biết nội dung
của bức điện, nhưng nó không phải là bức điện gốc.
“…Chúng tôi có được bức điện này là
do Mặt trận Giải phóng chuyển cho và họ yêu cầu anh trả lời một số câu hỏi
…”.
Viên trung tá dừng lại, chỉ một
người đang bước vào. Người ấy nhìn chằm chằm vào tôi. Sau đó anh ta
nói:
- Tôi biết anh là Bưởi và anh cũng
biết tôi. Tôi nói thế có đúng không?
Tôi nhìn kỹ lại anh ta. Đúng là tôi
có biết anh ta. Người này tôi đã gặp ở Tổng nha cảnh sát Sài Gòn trước khi tôi
được đưa ra Huế. Khi ấy anh ta mặc quân phục cấp bậc đại uý, và anh ta không có
vẻ gì đặc biệt như những người bình thường được chỉ định đến làm việc ở
đó.
Tôi suy nghĩ kỹ trước khi trả lời:
"Anh có thể hỏi tôi những gì anh muốn, nhưng tôi chỉ thừa nhận là tôi đã từ miền
Nam ra đây. Anh đã biết rõ tôi là ai rồi…".
Viên sĩ quan cấp tá chưa hài lòng,
ông ta hỏi:
"Những điệp viên của anh là
ai?".
Đó là điều mà Bưởi đã chờ đợi từ
lâu. Điều ấy đã diễn ra một năm rưỡi trước đây. Bưởi nói tiếp :
Tôi nói với họ về tướng
Giáp…
Các ông phải nhớ rằng chúng tôi đã
theo dõi các hoạt động đi lại của tướng Giáp và chúng tôi biết ông ta đang chuẩn
bị đi Matxcova, nhưng chúng tôi không biết rõ là ông ta sẽ làm gì ở đó. Chúng
tôi cũng biết được những vấn đề trong phong trào Cộng sản quốc tế về vấn đề lãnh
đạo Nam Tư đã bất đồng với Liên Xô và đã xảy ra những vấn đề trong nhũng năm
1950 ở Đông Đức và Ba Lan. Chúng tôi biết được cuộc xung đột giũa Trung Quốc và
Liên Xô có những cuộc tranh luận ở Bắc Việt về việc họ nên nghe theo ai. Có một
nhóm kêu gọi rằng Hà Nội nên đứng ngoài cuộc và chừng mực nào đó phải giữ được
tính độc lập-nhóm này được gọi là những kẻ xét lại.
Trong cuộc họp giữa tôi với các sĩ
quan CIA và Cẩn trước khi tôi được đánh đi họ đã cân nhắc đến những việc tôi
phải làm nếu tôi bị bắt. Nếu điều này xảy ra, đặc biệt là việc ném bom được thực
hiện trước khi trở về thì tôi có thể sẽ được giúp đỡ vì sự bất đồng của những
quan chức trong nhóm xét lại mà mục đích của họ là chống lại những người thuộc
phái ủng hộ Đảng. Cho nên tôi khai với họ điều mà tôi đã được hướng dẫn để nói.
Tôi khai rằng tướng Giáp đang làm việc cho Mỹ, ông ta đã được tuyển ở Matxcova
và là người đứng đầu của nhóm xét lại. Điều này có ý nghĩa là ông ta không sẵn
lòng chấp nhận sự lãnh đạo của Matxcova và ủng hộ một Bắc Việt Cộng sản theo
kiểu Nam Tư, đồng thời không thừa nhận sự lãnh đạo của cả Matxcova và Bắc
Kinh.
Bưởi ghi nhớ một danh sách các tên
để khai với Bộ Công an và các quan chức Bắc Việt, lập tức được ghi lại khi anh
ta khai ra điều đó. Danh sách này gồm Trần Hữu Dực phụ trách Nông nghiệp trong
văn phòng Thủ tướng, Trần Danh Tuyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội,
Trịnh Nguyên giám đốc mỏ than Hòn Gai, Nguyễn Thọ Chân, Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh
và một số quan chức an mình khác. Bưởi nói tiếp:
-Tôi nhớ lại một thời gian sau đó có
nghe nói tới việc tướng Giáp đi Bắc Kinh, một trong những quan chức trong trại
nói là tướng Giáp đi Bắc Kinh vì ông ta bị nghi ngờ là đứng đầu nhóm xét lại.
Còn những người khác thì không thấy xuất hiện trên báo chí nữa, trừ ông Nguyễn
Thọ Chân, người ta nói rằng ông ta đã đi làm đại sứ ở Matxcova. Tôi không rõ
những gì đã khai báo với Bộ Công an có tác động trực tiếp đến việc bắt giữ những
phần từ xét lại hay không, nhưng tôi tin chắc là có đóng góp một phần nhỏ trong
làn sóng bắt bớ lúc bấy giờ.
Tôi bị giam tại một nhà tù ở Vĩnh
Linh vào thời kỳ đầu Mỹ ném bom Bắc Việt-tháng 8/1964. Năm 1965, ba năm sau khi
bị bắt tôi được đưa ra xét xử tại Toà án quân sự về tội làm gián điệp với mức án
20 năm tù giam. Sau khi xét xử tôi được đưa đến trại giam số 3 ở Nghệ An. Vào
khoảng năm 1968 tôi được chuyển đến trại Phong Quang. Tôi không bao giờ quên
những câu hỏi của giám thị trại giam. Khi tôi đến đó-ông Hoàng Thanh nói: "Này
tôi biết anh đã khai những gì với Bộ Công an rồi, hãy nói cho tôi biết những gì
anh muốn khai thêm với tôi". Tôi không nói gì cả và điều đó đã làm cho ông ta
tức giận.
Trong khi ở trại Phong Quang tôi gặp
Trần Quốc Hùng và Lưu Nghĩa Lương, hai điệp viên này cũng bị Bắc Việt bắt. Tôi
gặp người anh của Nguyễn Cao Kỳ bị bắt ở đó. Ông ta ở lại miền Bắc sau năm 1954
và đã sống yên ổn cho tiến khi xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ. Sau đó ông ta bị bắt
và bị cách ly. Một lần tôi nói chuyện với ông ta và điều ấy đã gây ra một loạt
các cuộc thẩm vấn đối với tôi nhằm tìm ra những tác hại trong cuộc nói chuyện
với người anh của Kỳ. Họ giam tôi ở đây cho đến năm 1972, khi được biết là tôi
sẽ được trao trả. Sau những lớp nhồi sọ trước khi trao trả họ cười thân thiện và
nói rằng tôi sẽ được về nhà sau ngày chiến thắng.
Vào cuối năm 1962, những hồ sơ của
Hà Nội ghi chép về những hoạt động phản gián thành công bao gồm K26 (Mộc Châu);
K36 (Sông Mã-Sơn La); K33 (Hoà Bình); K37 (Hà Bắc); K34 (Quảng Bình); K32 điện
Biên); K35 (Yên Bái)...
Việt Nam đã công bố những thành công
của mình vào các năm sau đó. Sau một loạt những phỏng vấn các tình báo viên của
cơ quan tình báo quân sự và dân sự Việt Nam Cộng hoà bị bắt vào 30.4.1975, nhất
là những người có liên quan đến các hoạt động tình báo chống lại miền
Bắc.
Đặc biệt đối với các hoạt động hỗ
trợ của các tổ chức bí mật, thắng lợi của mỗi điệp vụ này chứng minh rằng các
thông tin liên quan đến các hoạt động được tuyên truyền qua các phương tiện bí
mật đã được đảm bảo hoàn toàn bí mật và thực hiện đúng các yêu cầu của mỗi điệp
vụ nói trên.
Một số nhân viên điện đài đã báo
động cho Sài Gòn về việc họ bị bắt giữ và bị sử dụng trong các hoạt động đánh
lừa của Hà Nội qua điện đài, còn một số khác thì không. Năm 1962 CIA đã hạn chế
những hoạt động với những nhóm mà họ cho là đã bị đối phương khống chế. Tuy
nhiên cũng có một số ít các toán đã cho thấy là không có bằng chứng chắc chắn
nào chứng tỏ họ đã làm việc cho Hà Nội khi các sĩ quan bán quân sự Mỹ được rút
khỏi Lào theo hiệp định Genevơ về Lào năm 1962.
Đối với John Richardson, một trưởng
trung tâm CIA mới ở Sài Gòn việc kết thúc năm 1962 có ý nghĩa nhiều hơn là việc
kết thúc 6 tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ mới của ông ta ở Việt Nam, vì nó trùng
hợp với những bước đầu tiên chuyển giao một số hoạt động bán quân sự của CIA cho
quân đội Mỹ. Đồng thời Richarson cũng phải giám sát những thay đổi về mặt chính
trị đối với Diệm, khi các lực lượng của Diệm theo dõi các sĩ quan CIA và Ngô Thế
Linh tiếp tục phái gián điệp ra miền Bắc.
Đối với William Colby, sự chú ý của
ông ta đã có sự thay đổi do cuộc đảo chính đang âm ỉ ở Sài Gòn. Sự chuyển giao
đã trở thành vấn đề cần phải thương lượng với Bộ Quốc phòng. Những cuộc thương
lượng ấy đã làm mờ mắt Hà Nội bởi con sâu bỏ rầu nồi canh.
4. CHIẾN LƯỢC CÀI
RĂNG LƯỢC ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG.
Ngày 1 tháng 1 năm 1963 cùng với
việc thực thi kế hoạch chiến lược cài răng lược theo từng giai đoạn, bộ chỉ huy
quân sự Mỹ tại Sài Gòn chính thức nhận trách nhiệm về an ninh biên giới từ lực
lượng bán quân sự của CIA dưới quyền của Gilbert Layton. Trong khi đó các hoạt
động phía Bắc của CIA tiếp tục dưới quyền chỉ huy của W.T Cheney đóng tại Sài
Gòn. Chiến lược cài răng lược ở miền Nam Việt Nam dường như là đã được chỉ đạo
để hoàn thành vào tháng 7 năm 1963, tuy vậy diễn biến của chiến lược này thiếu
sự chỉ đạo của Tổng thống Diệm.
Gilbert Layton nhớ lại giai đoạn
đó:
- Đại tá George Morton chỉ huy lực
lượng đặc biệt "C" lúc đó đóng tại Nha Trang. Chương trình hành động bán quân sự
ở phía Nam của tôi được chuyển qua cho ông ta theo từng giai đoạn phù hợp với
chiến lược cài răng lược. Ngay khi mà lực lượng quân sự sẵn sàng tiếp nhận chúng
tôi chuyển giao ngay. Tôi nhớ lại là vào mùa hè năm 1963, hầu hết việc chuyển
giao này đã hoàn thành và tôi ở lại làm trợ lý đặc biệt cho Morton.
Ngay từ đầu đại tá Morton đã hiểu
rằng chương trình hành động phía Nam phụ thuộc vào việc duy trì lực lượng đặc
biệt của quân đội Mỹ đóng cùng lực lượng dự bị địa phương trong các làng xã chứ
không thể tách biệt được. Đây chính là hạt nhân của khái niệm bán quân sự, dùng
các lực lượng tại chỗ bảo vệ làng xã của họ như giữ cho cá sống trong vùng nước
của nó.
Những lực lượng ở mức độ làng xã này
là nguồn cơ bản cung cấp thông tin về các hoạt động của kẻ địch. Lực lượng này
phục vụ như là tai mắt trong các làng xã mà từ đây họ đã sống và được tuyển mộ.
Họ sẽ chiến đấu để bảo vệ nơi sinh sống của họ, bởi vì họ có rất nhiều quyền lợi
ở đó. Đưa họ sang vùng đất khác nơi không có những người dân địa phương sinh
sống cũng có nghĩa là làm cho lực lượng này trở nên không hiệu quả.
Trong suốt quá trình chiến lược cài
răng lược được thực hiện tướng Richard G. Stilwell đã quyết định chuyển lực
lượng đặc biệt cộng với các lực lượng dự bị mà chúng tôi đã chuyển cho đại tá
Morton tại Nha Trang di chuyển theo hướng tây về phía biên giới Lào. Chiến lược
của tướng Stilwell chính là lực lượng dự bị địa phương có thể phản ứng nhanh
ngăn chặn các lực lượng Bắc Việt khi xâm nhập qua biên giới, nhưng điều này cũng
hoàn toàn đối nghịch với chiến lược của tôi trước khi chuyển lực lượng này đi.
Đại tá Morton đã hiểu cái mà tôi đang làm. Tôi cũng tham gia vào cuộc họp trong
đó Morton thúc giục lực lượng này ở lại vị trí cũ, nhưng tướng Stilwell lại yêu
cầu lực lượng này di chuyển lên phía trên. Nó có thể là một chiến lược hợp lý,
nhưng nó lại tạo ra một hiệu ứng là đưa cá ra khỏi vùng nước nó sinh sống. Lực
lượng di động của chúng tôi được đặt ở trên vùng biên giới đã sớm mất hiệu quả
bởi vì họ phải hoạt động trong vùng không hề có dân, nơi mà họ chẳng có quyền
lợi gì ở đó. Tướng Stilwell đã chịu rất nhiều áp lực, theo tôi chủ yếu là từ
Washington.
Khi chiến lược cài răng lược tiếp
tục được thực hiện chính quyền Diệm bắt đầu tăng cường sự theo dõi đối với các
sĩ quan CIA đang có quan hệ với các nhóm chính trị bên ngoài, ví dụ như Việt Nam
Quốc dân Đảng. Vào mùa xuân 1963, một mình Tucker Gougelmamn thu xếp cho ra đời
một cơ quan tại Đà Nẵng với sự giúp đỡ từ Carl Jenkins, sĩ quan trong lực lượng
bán quân sự của CIA trực tiếp phụ trách căn cứ huấn luyện Hoàng Hoa Thám. Tại
Long Thành căn cứ huấn luyện mới được thành lập, sĩ quan bán quân sự của CIA
Larry Jackson đã làm việc với các đồng nghiệp Việt Nam để giúp đỡ trong việc mở
lớp và lần đầu tiên lực lượng này đã sẵn sàng tới đó để dự huấn
luyện.
Tháng 4
năm ấy toán "PEGASUS" đã nhảy dù xuống Lạng Sơn, 2 tuần sau, một nửa toán
"JASON" tới Quảng Bình và nửa còn lại đến vào tháng sau đó. Nhưng tất cả thành
viên của hai toán đều bị bắt.
Việc thành lập trung tâm huấn luyện
Long Thành vào tháng 4 năm 1963 là bước chuẩn bị tiếp theo của CIA trong việc
chuyển chương trình bán quân sự ra miền Bắc sang cho Lầu Năm góc . Một bằng
chứng khác của việc chuyển đổi này bao gồm tái tổ chức nội bộ toán. Việc sử dụng
tên toán cũng mang tính chất quân sự hơn. Cựu chỉ huy căn cứ huấn luyện tại Long
Thành, Nguyễn Hưng nhớ lại việc thành lập:
- Larry Jackson là sĩ quan CIA chủ
yếu hướng dẫn tôi về huấn luyện và ông ta đã làm việc với tôi cho tới khi lực
lượng quân sự Mỹ tiếp quản tất cả vào mùa xuân năm 1964. Trong suốt mùa hè 1963,
lực lượng quân sự đặc biệt của Mỹ đã đến Long Thành để tổ chức huấn luyện các
toán tung ra miền Bắc. Khi các toán tiến vào vùng giới nghiêm trước lúc mở màn
chiến dịch, Cục tình báo trung ương Mỹ tiếp nhận và trong trường hợp này viên
chức CIA phải sắp xếp cho họ nhảy dù xuống trên chuyến bay C-123 do đoàn phi
hành người Đài Loan điều khiển. Cùng với việc thành lập trung tâm huấn luyện ở
Long Thành, chúng tôi kết thúc với 2 toán hoàn toàn ngăn cách. Một toán biết rất
rõ trung tâm huấn luyện Long Thành. Còn toán thứ hai ở trong những ngôi nhà được
bảo vệ an toàn nằm rải rác quanh Sài Gòn. Những người trong trung tâm huấn luyện
Long Thành dù biết nhau, nhưng những người trong khu được bảo vệ an toàn thì vẫn
ở trong những căn phòng riêng biệt. Đây còn được coi như một phần bí mật của
chiến dịch. Trong công tác huấn luyện, chúng tôi quan tâm đến cả hai loại lực
lượng: một lực lượng sẽ được tung ra miền Bắc và một lực lượng hoạt động ở miền
Nam. Công việc chủ yếu của tôi là bảo đảm cho họ hiểu được những kiến thức cơ
bản về chất nổ, về thu lượm tin và sử dụng thành thạo. Tôi cho rằng chúng tôi đã
chuẩn bị khá tốt cho loại công việc này.
Các cuộc tranh luận mang tính chất
chuyên môn về việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam không chỉ hạn chế đối với
người Mỹ mà những cuộc tranh luận như thế cũng xuất hiện trong bộ chỉ huy Quân
đội nhân dân B-2 Việt Nam tại miền Nam. Bộ chỉ huy này được mang tên là Bộ Tư
lệnh Quân giải phóng. Trong nhiều năm, những cán bộ chỉ huy chủ chốt ở đây như
tướng Trần Độ, một trong những chỉ huy phó của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng đã
luôn chú ý và đẩy mạnh chiến tranh du kích chứ không phải là sự leo thang chiến
tranh. Quan điểm này được giữ vững mãi đến năm 1963, khi tướng Nguyễn Chí Thanh
từ Hà Nội vào giữ chức Tư lệnh lực lượng quân sự miền Nam. Tướng Thanh vào mang
theo một quyết định cứng rắn chuyển chiến tranh du kích sang các hoạt động quân
sự tầm rộng hơn. Quan điểm của tướng Trần Độ và của vài người khác ở Bộ Tư lệnh
tại miền Bắc tỉnh Tây Ninh đã bị lu mờ trước kế hoạch bất ngờ của Hà Nội trong
việc chuẩn bị gửi các đơn vị quân thường trực chính quy vào miền Nam Việt
Nam.
Một phần của trục trặc này là do áp
lực từ Washington hối thúc việc chuyển giao này xảy ra nhanh hơn. Và một phần
khác hiển nhiên thấy được là có rất ít toán biệt kích thực sự tồn tại và hoạt
động trong lòng Bắc Việt. Điều này có nghĩa rằng việc thúc đẩy để thực hiện
chương trình là phụ thuộc vào kỳ vọng của Washington.
Một nhân tố khác dẫn tới cách tiếp
cận vấn đề thiếu toàn diện là sự khác biệt cơ bản về mặt quan điểm giữa William
Colby, người chịu trách nhiệm phần Viễn Đông của CIA với Giám đốc CIA James
Angleton. Đây là vấn đề cơ bản quan trọng nhất của giới lãnh đạo bắt nguồn từ
quá trình ra quyết định bởi các quan chức cao cấp nhất của CIA tại tổng hành
dinh, Trưởng trung tâm tại Sài gòn (dĩ nhiên người ta dễ thiên về ý kiến của
Trưởng trung tâm hơn). Thêm vào đó. các tin đồn về đảo chính đang tràn ngập cả
Sài Gòn và Washington càng tạo thêm áp lực đòi CIA phải chuyển giao gấp các lực
lượng bán quân sự (phần lớn là chưa hoàn chỉnh, chắp vá) cho Lầu Năm
góc.
Trong suốt mùa xuân năm 1963, phong
trào Phật giáo tẩy chay Diệm đã phát triển và Colby đã bị rối lên trong các cuộc
tranh luận đối với vấn đề có nên duy trì Tổng thống Diệm hay loại bỏ ông ta.
Quyền Bộ trưởng Quốc phòng của Tổng thống Diệm, ông Thuần đã đưa cho tướng
Maxwell Taylor một lá thư khuyến cáo các yêu cầu của Washington đòi mở rộng
quyền hạn của các cố vấn Mỹ, trong khi Tổng thống Diệm vẫn giữ lập trường kiên
quyết chống lại những cố gắng tăng thêm cố vấn mà ngài Bộ trưởng năng động đã
chính thức yêu cầu người Mỹ dưới danh nghĩa của Tổng thống Diệm. Sự có mặt của
quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc này đã vượt quá 15.000 người. Bộ trưởng Quốc phòng
Mc Namara đã đưa ra hai hướng giải quyết cùng một lúc. Một mặt ông ta chỉ đạo
Lầu Năm góc chuẩn bị cắt giảm đáng kể các nguồn viện trợ quân sự tới Việt Nam
xuống con số 0 trong vòng 6 năm, ngừng tăng quân số của quân đội Mỹ tại Việt Nam
và đồng thời ra kế hoạch giảm 1000 lính vào cuối năm. Bên cạnh đó, ông ta phê
chuẩn tăng viện trợ vào khoảng 10% mức hiện tại, điều này làm cho việc chuẩn bị
giảm quân số và ngân sách trở nên lỗi thời ngay trước khi kịp ráo
mực.
Việc chuyển các toán hoạt động bán
quân sự ở phía Bắc cho giới quân sự trùng hợp với việc tuyển chọn dân sự đang
được huấn luyện ở các trung tâm sang thành các toán xâm nhập đường biển chứ
không phải bằng đường không cũng gây một xáo trộn lớn. Cũng vào thời điểm đó,
các toán biệt kích đã không thể xâm nhập vào Bắc Việt theo đường biển bằng
thuyền lại được chuyển vào Sài Gòn để huấn luyện nhảy dù chuẩn bị đột kích bằng
đường không.
Cho đến tháng 6 những lời đồn đại về
những cố gắng cho các đơn vị biệt kích bán quân sự xâm nhập bằng thuyền từ Đà
Nẵng đã gặp những khó khăn nghiêm trọng lan tràn khắp căn cứ. Không ai nhận thấy
điều này rõ hơn Nguyễn Văn Ngọ chỉ huy toán hoạt động dài ngày, người đã thực
hiện nhiều cố gắng xâm nhập vào vùng cán xoong ở Bắc Việt bằng thuyền, song
không thành công. Lực lượng của ông ta thuộc một trong những toán được gửi từ Đà
Nẵng vào Sài Gòn để huấn luyện nhảy dù. Sau khi hoàn thành việc huấn luyện, lực
lượng của ông Ngọ chia làm hai toán: BART và TELLUS. Ông Ngọ là chỉ huy trưởng
của TELLUS và được thả dù xuống mục tiêu của nó vào một thời điểm rất thuận lợi
trong đêm. Cùng với các thủ tục nhảy dù bình thường, toán được hướng dẫn nhảy dù
xuống bất kỳ địa điểm nào cách khu dân cư trên 10 km.
Những người còn sống sót của toán
sau này tả lại là họ đã nhảy dù xuống một vùng đông dân ở tỉnh Ninh Bình, nhưng
lại sai vị trí dự định. Tồi tệ hơn toán nhảy dù xuống một làng khá lớn và hạ
ngay trước trụ sở Hợp tác xã.
Ban quản trị làm việc rất khuya và
phát hiện ra ngay khi họ vừa hạ cánh. Cả toán bị bắt ngay trước khi họ kịp rút
vũ khí ra.
Toán
BART, do Đinh Văn Chức chỉ huy, nhảy dù xuống gần Thanh Hoá. Toán này không bị
rơi vào những vùng đông dân cư nhưng lại bị dân địa phương phát hiện và báo cho
lực lượng an ninh địa phương. Họ bị bao vây và tóm gọn một cách nhanh
chóng.
Vào ngày
4/6 toán BELL đã nhảy dù vào huyện Văn Bản thuộc tỉnh Yên Bái phía Đông Bắc Hà
Nội. Toán này bị bắt ngay lập tức, và người điều khiển điện đài là Lù Thế Toàn
cũng bị bắt.
Sau đó, các tình báo viên thông báo
lại rằng, những người thổ dân trên núi không nói được tiếng phổ thông và bất cứ
một sự liên lạc quan trọng nào với họ đều bị bế tắc. Vào tháng 9, BELL thông báo
với Sài Gòn là đã đánh phá được đường xe lửa Hà Nội-Lào Cai vào ngày 31/8 nhưng
việc này không bao giờ xảy ra cả.
Toán DAUPHINE gồm năm người đi cùng
với toán BELL trên một đợt đổ bộ bằng dù, họ được thả xuống Lào Cai trước BELL.
Chỉ huy của toán kể lại nhiệm vụ như sau:
- Toán của chúng tôi được thành lập
vào năm 1962. Tất cả đều là người dân tộc Tày ở khu vực Lào Cai và tôi ở huyện
Văn Bản. Nhiệm vụ cuối cùng của chúng tôi trong giai đoạn từ tháng 6/1962-6/1963
là phải tiến hành 5 phi vụ trên khu vực dự định hoạt động và chọn lựa nơi đổ bộ.
Lực lượng không quân Nam Việt Nam đưa chúng tôi đến Thái Lan, và đội bay của Đài
Loan chở những toán còn lại. Chúng tôi cất cánh từ Thái Lan, bay qua Việt Nam,
và đến vịnh Bắc Bộ. Chúng tôi bay trên sông Hồng, qua Hải Phòng, Hà Nội, Yên
Bái, rồi lên Lào Cai trước khi quay trở lại Thái Lan. Năm phi vụ này dường như
là bay có định hướng vì các phi hành gia Đài Loan tỏ ra thạo đường. Chúng tôi đã
sử dụng một ống kính tầm xa khuếch đại ánh sáng để xác định các vị trí trên mặt
đất đã đảnh dấu trên bản đồ của các phi hành gia. Chúng tôi luôn bay vào những
đêm trăng sáng ở một khoảng cách không cao lắm nên có thể nhìn rõ mọi
thứ.
Nhiệm vụ của DAUPHINE là phải bắt
mối liên lạc với những người dân tộc Tày và xây dựng một căn cứ tại đấy. Sau đó
chúng tôi phải phá hoại tuyến đường sắt Lào Cai-Hà Nội. Một thành viên trong
toán của tôi được gọi là tình báo chính trị vì anh ta có chân trong "Đảng Gươm
thiêng ái quốc", một Đảng có nhiệm vụ chính trị đằng sau những hoạt động biệt
kích đơn thuần của chúng tôi. Trong đợt bay thứ 6 của tôi có 2 toán trên cùng
một chuyến bay, tôi biết Lý Văn Choi là một trong những thành viên của toán kia
mà sau này biết rõ là của toán BELL. Toán của chúng tôi nhảy ra trước ở độ cao
khoảng 300m. Trời lúc đó gió nhẹ nhưng khoảng 20 giây sau chúng tôi mới tiếp
đất.
Vừa tiếp đất chúng tôi đã mau chóng
phát hiện ra là mình đang ở trong vòng vây của dân quân địa phương. Đây quả là
điều mà không ai mong đợi, nhưng chúng tôi đã kiên quyết chống trả dữ dội trong
nhiều giờ trước khi bị mất liên lạc Tôi bị trúng đạn nhiều lần nhưng đã cố gắng
lẩn trốn được khoảng 7 ngày thì bị bắt. Họ chở tôi bằng máy bay trực thăng tới
một bệnh viện chuyên khoa của Bộ Công an nằm trong một thị trấn nhỏ có tên Phố
Mới, và họ đã thẩm vấn tôi ở đó. Do chúng tôi đã ngoan cố lẩn trốn để tránh bị
bắt giữ, và do thái độ không chịu hợp tác. Sau năm đó tôi đã bị đưa tới nhà tù
Quyết Tiến và tôi nhớ là đã gặp 37 biệt kích khác ở đấy. Hai người đồng đội của
tôi đã không cùng tôi tới nhà tù Quyết Tiến. Chúng tôi chống trả và kiên quyết
không hợp tác với Bộ Công an. Hai đồng đội của tôi bị tử hình vì đã kháng
cự.
Ở đợt bay của tôi đã có điều gì đó
sai sót rất nghiêm trọng mà vào ngày đó tôi không thể hiểu cái gì đã xảy ra.
Chúng tôi có nhiệm vụ đổ bộ lên một làng nhỏ của dân tộc Tày có tên là Bản Lùn.
Tôi biết khu vực này và tôi đã nhận ra nó trong chuyến bay qua trước đó. Nhưng
chúng tôi đã được thả đúng vào bản Vo Lao cách xa khoảng 25 km. Những người nông
dân đang tuốt lúa ở phía trước nơi tụ họp của bản đã nhìn thấy ngay khi chúng
tôi đáp xuống đất. Tại sao chúng tôi, bị thả chệch quá xa điểm dự tính mà phi
hành đoàn đã bay qua rất nhiều lần? Tôi đã phải đợi tới 25 năm sau mới có một
vài người Mỹ nói cho biết vì sao và cái gì đã xảy ra. Các bạn có biết tại sao họ
làm như vậy không?
Tôi không có được câu trả lời đích
đáng nào cả.
Bốn ngày
sau toán MIDAS đã tới Nghệ An và rơi vào tầm kiểm soát của Hà Nội. Khi đó toán
NIKE bị bắt giữ ở tỉnh Hà Tĩnh. Vào tháng 8 toán EASY tới Sơn La, phía tây của
TOURBILLON và đã tuyển thêm một số người vào danh sách điện báo viên của toán.
Các toán khác được CIA tung ra phía Bắc quá nhanh đến nỗi sau này những nhà
nghiên cứu của Lầu Năm góc cũng không thể hình dung được chính xác vị trí và
thời điểm mà họ đổ bộ.
Vào năm
1963 điệp viên đơn tuyến Dương Chúc một mình đáp xuống bãi đổ bộ đèo Ngang, một
khu vực được sử dụng nhiều lần ở tỉnh Hà Tĩnh. Ngay lập tức anh ta đã bị bắt.
Điệp viên Nguyễn Thuỳ sau đó ít lâu cũng chịu chung số phận như vậy.
Toán điệp
viên kép gồm hai người được mọi người biết tới với cái tên ARES đã phải chịu
nhiều tổn thất hơn. Vào tháng 11/1962, toán BECASSINE 6 người được huấn luyện ở
một căn cứ an toàn trong ngôi nhà số 199 trên nút giao thông chính Phú Nhuận tại
ngoại ô Sài Gòn.
Toán được giảng viên người Việt Nam
và Mỹ huấn luyện trong vòng 8 tháng. Một sĩ quan quân đội Mỹ mà mọi người biết
tới với cái tên "Dick" chịu trách nhiệm hướng dẫn về cách thức phá hoại. Giảng
viên người Việt dạy cách thức và trình tự thu thập tin tức, tình báo, huấn luyện
nhảy dù, và các loại vũ khí. Việc tập bắn súng diễn ra tại trung tâm huấn luyện
bộ binh Thủ Đức. Điện báo viên của toán đã tiếp nhận luật mật mã tại một trường
tư thục ở Quận Tân Định-Sài Gòn.
Vào tháng 6/1963, toán nhận nhiệm vụ
hoạt động ở vùng Đông Bắc-Bắc Việt Nam gần thị xã Hòn Gai. Toán phải bắt liên
lạc với dân địa phương, thiết lập mạng lưới giao liên, báo cáo các tin tức về
các căn cứ quân sự và những mục tiêu khác trong khu vực. Sau khi đổ bộ cả toán
phải di chuyển nhanh tới điểm tập trung đầu tiên, liên lạc điện đài với chỉ huy
sở, và thiết lập căn cứ hoạt động an toàn. Vào thời điểm đó, Ban chỉ huy sẽ giao
nhiệm vụ cụ thể và chỉ dẫn các hoạt động tiếp theo để tới những khu căn cứ mới.
Nhiệm vụ của toán là duy trì hoạt động trong 3 năm, sau thời gian đó các thành
viên trong toán sẽ được xuất đầu lộ diện.
Việc cài cắm được một đội hình như
vậy vào vùng Đông Bắc-Bắc Việt Nam gieo vào tâm trí họ như một chiến thắng vĩ
đại và động viên mọi người có thái độ làm việc tích cực. Ngô Thế Linh, một sĩ
quan lâu năm của chỉ huy sở hứa sẽ để ý theo dõi mọi việc.
Khu vực đổ bộ và điểm tập trung đầu
tiên đã được xem xét rất cẩn thận. Dựa trên những thông tin có sẵn trên bản đồ,
có thể khẳng đình khu vực đổ bộ là an toàn và không có dân cư.
Cả toán đi trên một chiếc xẻ tải bịt
kín ra sát máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Phi hành đoàn gồm phi công
Đài Loan và các nhân viên "Kickers", những người có nhiệm vụ đẩy hàng hoá ra
khỏi máy bay khi hạ độ cao. Máy bay cất cánh, nó bay qua vùng biển Nam Trung
Quốc, rồi hướng về phía Bắc qua Đại dương. Đôi khi nó dường như bay là là ngọn
sóng. Sau khi bay qua vịnh Bắc Bộ và Hạ Long giữa Hòn Gai và Cẩm Phả. Tiếp tục
hướng về phía bờ biển, máy bay đột ngột tăng độ cao và hướng vào điểm thả dù
theo kế hoạch lúc nửa đêm trên núi Yên Tử. Bốn thùng hàng lớn chứa các thiết bị
cung ứng được thả xuống bãi thử nhất, sau đó máy bay bay một vòng, và cả toán sẽ
nhảy ra ngoài ở độ cao vừa phải trên bãi thứ hai của mục tiêu.
Khi đã ở trên mặt đất, các thành
viên sẽ dùng điện đài xách tay để định vị đèn tín hiệu đã chạm đất, các thành
viên trong nhóm hên lạc với trung tâm bằng máy điện đàm cầm tay của mình để xác
định vị trí đầu tiên và liên lạc với nhau bằng điện đàm nhỏ của mình. Năm trong
sáu thành viên tới được điểm hẹn và bắt đầu tìm kiếm bốn thùng hàng chứa thiết
bị và các vật dụng-triển khai việc tìm kiếm toán viên Cao Văn Thông bị mất
tích.
Vào khoảng 5 giờ sáng hôm đó, họ đã
tìm được anh ta. Dù của anh ta không mở và bị đập đầu vào đá mà chết. Họ cũng
tìm thấy 2 thùng hàng và đem giấu chúng vào một hang đá để dùng sau
này.
Khi những tia nắng sớm đầu tiên
chiếu lên những tảng đá xung quanh, cả toán quây quần và pha cà phê chờ cho trời
sáng rõ để tìm nốt 2 thùng hàng còn lại. Họ nhanh chóng uống cà phê. Nguyễn Văn
Thiệt và Bùi Minh Thế được lệnh tìm nốt các vật dụng còn thiếu. Khi trời sáng
rõ, các thành viên trong toán nhận thấy rằng toàn bộ khu vực lấm chấm những nông
trường và xí nghiệp mà không hề được đánh dấu trên bản đồ.
Khu vực này không an toàn chút nào
cả và không có dân ở. Người lên kế hoạch thiếu hoàn chỉnh.
Sau nhiều giờ đi tìm kiếm cách nơi
nhảy dù 1 km, Thiệt và Thế tìm thấy một hòm bị thất lạc trên một quả đồi phủ kín
cây. Bên cạnh đó có nhiều người chăn các đàn gia súc. Họ lần ngược trở lại để
báo cho toán trưởng Đinh Văn Công đang ở trên núi về thùng hàng mất tích. Tin
này quả là bất lợi, vì những người chăn gia súc sẽ báo cho lực lượng an ninh
biết việc phát hiện ra chiếc hòm và việc tung lực lượng truy tìm biệt kích sẽ
được triển khai. Không còn thời gian để liên lạc đường dài với trung tâm, tình
hình an toàn nhanh chóng xấu đi. Họ quyết định phân tán đội hình, mỗi người tìm
cách thoát riêng. Họ đưa ra ý kiến nên trèo xuống núi và cố gắng đi gần tới bờ
biển, tìm mọi cách lấy cắp tàu thuyền để trốn. Rủi ro thay, nơi họ đổ bộ lại là
vùng núi đá, mà việc trèo xuống là cực kỳ khó khăn. Ban đầu người ta bảo rằng
vùng đất nơi họ nhảy dù là an toàn, nhưng bây giờ trở nên quá tồi tệ.
Họ đành vứt bỏ lại vật dụng của hai
thùng hàng. Đây là hai thùng hàng chứa nhiều thuốc men và vật dụng của cả toán,
không thể biết chính xác là thùng nào có chứa tiền. Ngô Thế Minh cho biết là họ
mang ra 4 triệu tiền Bắc Việt để sử dụng vào một số nhiệm vụ đặc biệt nào đó.
Anh ta không nói rõ là tiền này từ đâu mà có, và là tiền thật hay là giả. Và một
máy in truyền đơn cũng nằm ở 1 trong 2 thùng hàng ấy.
Trong ngày 4 tháng 6 các thành viên
trong toán lần lượt bị các lực lượng dân phòng địa phương, Công an và bộ đội chủ
lực bắt gọn. Họ được đưa đến Thị xã Hòn Gai và bị nhốt trong nhà tù tỉnh. Lực
lượng công an tỉnh xét hỏi về việc huấn luyện họ ở miền Nam, và những gì họ đã
làm khi ra miền Bắc . Một điều kỳ lạ là những người xét hỏi không hề đả động gì
về các mối quan hệ với dân địa phương nơi bị bắt hoặc là sự liên hệ với các nhóm
biệt kích có ở trong vùng. Nhân viên xét hỏi cũng nói rõ việc họ đã phát hiện ra
tiền trong thùng hàng nhưng sự quan tâm lại tập trung vào số tiền mang theo
trong người. Có khá nhiều câu hỏi chung về chỉ dẫn điện đài mà điện báo viên đã
cố ý phá khi bị bắt. Người thẩm vấn hầu như biết rất rõ về tổ chức của biệt kích
và các hoạt động của họ. Điều đáng chú ý nữa là không bao giờ nhắc tới điệp viên
đơn tuyến mà Washington gọi là ARES.
Vào tháng 10, cả toán biệt kích bị
đưa ra xử tại toà án quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phiên toà bắt đầu
lúc 10 giờ sáng, 12 giờ sau bản án được thi hành. Tất cả các thành viên bị buộc
tội làm gián điệp và bị bỏ tù. Toán chưa có hành vi phá hoại lớn nên không bị
tuyên án tử hình.
Ngay sau phiên toà họ được đưa đến
khu biệt giam tại nhà tù Bất Bạt. Tại đây còn có trên 30 biệt kích đường không
và đường biển bị giam giữ. Gián điệp đơn tuyến Nguyễn Văn Hồng cũng ở đây. Tại
Bất Bạt họ không bị đối xử tàn tệ, mặc dù trong đó có nhiều người bị đưa tới Hoả
Lò để thẩm vấn.
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong nhà
tù. Thỉnh thoảng họ được đưa ra ngoài để cắt tóc, hái rau ở vườn nhà tù, một vài
người lại được đưa về gần Sơn Tây để xây dựng một nhà tù mới. Họ rất ngạc nhiên
khi thấy hai hay ba phạm nhân ngay phía ngoài cổng. Họ được biết đây là những
người Pháp nói rất sõi tiếng Bắc Việt. Sau một tháng tại Bất Bạt tất cả lính
biệt kích được chuyển về nhà tù Yên Thọ tỉnh Phú Thọ và họ ăn Tết Nguyên đán
1964 ở đó.
Cùng tháng 7 năm ấy, toán 6 người
dân tộc Nùng do Mộc A Tài làm toán trưởng, mật danh là DRAGON xâm nhập lần thứ 3
từ tàu Nautilus 7 để thực hiện một nhiệm vụ vào vùng Móng Cái ngay sát biên giới
với Trung Quốc. Các thành viên trong toán DRAGON nhận nhiệm vụ chung do một
người Mỹ tên là "Robert" giao, còn nhiệm vụ chi tiết sẽ do chỉ huy của họ đưa
ra. Nhiệm vụ của họ là tấn công một trạm Rada ven biển của Bắc Việt và cố tìm ra
điệp viên do đại tá Vòong A Sáng để lại năm 1954 khi ông rút sư đoàn người Nùng
của mình vào Nam Việt Nam. Một thông báo nói rằng Sở khai thác địa hình đã liên
lạc với đại tá Sáng. Sáng công nhận có cài người lại, nhưng đã bị mất liên lạc
với họ từ năm 1954. Nếu toán DRAGON, tìm được các điệp viên của Voòang A Sáng
thì sẽ dùng họ vào các hoạt động gián điệp trong thời gian không hạn định. Họ
cũng thông báo cho biết về trạm rađa trên đảo Hải Nam cửa Trung Quốc để tránh
phát hiện ra sự xâm nhập của họ vào Vịnh Bắc Bộ.
Một cậu
bé đã thấy họ vào bờ và những người dân chài xung quanh đó đã báo động cho lực
lượng an ninh bắt những kẻ xâm nhập. Trịnh A Sam nhân viên điệp báo của toán
DRAGON đã từ chối làm việc cho những người bắt họ.
Trong khi
toán DRAGON đang chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ của mình thì toán EUROPA bổ sung
được lệnh đổ bộ. Chiếc máy bay C-123 và tổ lái Đài Loan đã đâm vào núi ở Lào
trước khi đến được đích. Một toán bán quân sự của CIA đã nghiên cứu vị trí máy
bay rơi và phát hiện ra tất cả các thành viên trên máy bay đã chết sau khi đâm
vào núi.
Sau một tháng toán DRAGON bị bắt,
thủy thủ đoàn cũng bị giam giữ. Một người sống sót của toán NAUTILUS 7 đã thuật
lại nhiệm vụ cuối cùng của họ như sau:
-Cuộc hành quân đường biển của chúng
tôi ư? Tất nhiên là nó đã diễn ra! Tôi đã thực hiện 11 vụ trước khi tôi bị
bắt.
Các cuộc hành quân của chúng tôi ở
Đà Nẵng do Sở Phòng vệ duyên hải điều khiển. Chúng tôi phải làm 3 việc: dẫn dắt
mục tiêu trinh sát dọc bờ biển Bắc Việt Nam, cài cắm gián điệp, phá hoại miền
Bắc . Tổng chỉ huy cuộc hành quân là đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng đặc
biệt, và Ngô Thế Linh, sĩ quan hành quân cao cấp của chúng tôi. Họ có một cố vấn
người Mỹ tên là "Robert" ở Sài Gòn. Theo Ngô Thế Linh cho biết thì Robert là một
trung tá làm việc cho CIA và chịu trách nhiệm về các hoạt động của chúng tôi.
Anh ta đến đó năm 1961 và có thể vẫn ở đó cho đến năm 1963.
Tôi hay ra ngoài uống rượu, đập phá
và bị bắt vào quân cảnh. Tôi có lý do riêng của tôi. Tôi nói cho họ biết rằng
tôi ở trong lực lượng đặc biệt. Tôi đưa cho họ số hòm thư đơn vị của tôi KBC
4373, trên giấy chúng tôi là một bộ phận của lực lượng đặc biệt trừ một thứ:
chúng tôi không có số lính. Đó chỉ là sự nguỵ trang.
Chúng tôi có một nhóm nhỏ các sĩ
quan thuộc lực lượng đặc biệt của quân đội Nam Việt Nam tại Đà Nẵng, chỉ huy
nhóm là đại úy Đang. Tôi nghĩ rằng phó của anh ta là đại uý Phan. Đại uý Lý là
người phát lương cho chúng tôi và Mai Xuân Đê nắm các vấn đề như là nguồn nhiên
liệu cho chúng tôi.
Không thấy hỏi ai là người trực tiếp
chỉ đạo các cuộc hành quân của chúng tôi. Lúc đó chúng tôi có 2 người Mỹ: một
người tên là John và đại uý Đang có thể phiên dịch cho anh ta. Người Mỹ huấn
luyện giao nhiệm vụ cho chúng tôi, miêu tả các đặc điểm của khu vực mục tiêu và
vạch kế hoạch xâm nhập. Người Mỹ có các bức ảnh cận cảnh của khu vực mà họ chụp
cách đó 30 dặm và họ sử dụng chúng khi giao nhiệm vụ cho chúng tôi.
Chúng tôi có 7 thuyền đánh cá được
đánh số từ 1 tới 7. Không có dấu hiệu nào trên thuyền nhưng chúng tôi biết rõ
từng chiếc. Tôi đi vòng quanh một hồi. Tôi bắt đầu với chiếc số 2, sau đó chuyển
sang số 4 và lúc bị bắt thì đang ở trên chiếc số 7. Chúng tôi không chỉ đơn
thuần là những người lái tàu mà còn được huấn luyện làm người nhái.
Tôi nghĩ rằng chúng tôi ra đi vào
ngày l3/8/1963 và tới vịnh Hạ Long vào ngày 15. Tôi phụ trách toán xâm nhập và
chọn 5 người lên một chiếc thuyền cao su. Khi tôi kiểm tra khu vực đổ bộ, mọi
việc lúc đầu xem ra ổn cả. Tôi biết rằng đây là một công việc quan trọng vì chỉ
huy bảo có mấy thùng vật dụng trong đó một thùng chứa 4 triệu đồng tiền Bắc Việt
còn 2 thùng vũ khí và đạn dược. Phần còn lại là các vật dụng thông
thường.
Toán đổ bộ của chúng tôi vừa kiểm
tra nơi đổ bộ xong thì bị các tàu tuần tra của Hải quân Bắc Việt Nam bắn. Thuyền
của chúng tôi bị tấn công khi chỉ cách bờ 100m. Không còn cách nào khác là phải
chạy ra ngoài biển bỏ lại các vật dụng. Một vài người trong số chúng tôi bị bỏ
lại trên bờ. Tôi được biết rằng thuyền của chúng tôi quay lại Đà Nẵng vào ngày
17 nhưng báo cáo là 6 chúng tôi bị giết, và 2 thuyền viên đã bị thương. Công,
một nhân viên điệp báo của lực lượng đặc biệt trên tàu của chúng tôi là một
trong 2 người bị thương đó. Sau này phía Bắc Việt Nam có thông báo qua đài là
chúng tôi đã bị bắt. Điều này tạo ra sự mơ hồ và lo lắng thêm cho gia đình tôi
vì trước đó họ đã được báo là chúng tôi bị giết.
Trong 11 lần làm nhiệm vụ trước
tháng 8 năm 1963 tôi đã không gặp bất cứ một trục trặc nào cả. Chúng tôi bị mất
một thuyền viên trên tàu M1 vào cuối năm l96l. Trước đây tôi ở trên tàu đó và ít
nhất đã 2 lần đến cửa sông Gianh trong các cuộc hành quân thả thuỷ lôi. Chúng
tôi đã làm nổ tung một tàu của Bắc Việt Nam trong một lần hành quân. Vấn đề là ở
chỗ chiếc tàu quá nhỏ. Vào lần làm nhiệm vụ cuối cùng của mình chiếc tàu này đi
vào Hòn Gai và bị mất tích không để lại dấu vết.
Tàu N4 nghe nói đã đi Hải Phòng 2
lần và quay ra an toàn. Trên tàu có Thanh, một điệp viên đơn tuyến sau này bị
chết trong tù. Tôi đã đi tới tận Móng Cái sát biên giới với Trung Quốc và vào
tận Đèo Ngang Hà Tĩnh với tàu N7. Vào khoảng tháng 6 năm 1962 tàu N2 bị mất tích
trong khi đưa một toán người nhái đi thả thuỷ lôi. Đó là những mất mát duy nhất
của chúng tôi. Thuỷ thủ đoàn của tôi tàu N7, là toán cuối cùng bị mất tích. Sau
đó tôi cũng không biết việc gì đã xảy ra. Nhưng qua các lính biệt kích trong tù
tôi được biết rằng đã có một vài cuộc hành quân phá hoại ở Đồng Hới.
Vào lúc chúng tôi phải ở lại trên
bờ, tôi không tài nào hiểu được tại sao mà người Bắc Việt lại phát hiện được
chúng tôi đến đó. Khi ở trong tù tôi nghe người ta nói về một điệp viên đôi đó
chính là người mà chúng tôi vào bắt liên lạc ở Hòn Gai. Có thể anh ta là nguyên
nhân gây nên hậu quả cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn chắc
chắn.
Tôi đoán rằng lực lượng an ninh Bắc
Việt không phát hiện ra việc chúng tôi phải ở lại trên bờ. Chúng tôi phải lên
đường bằng con thuyền cao su và không còn sự lựa chọn nào khác. Tất nhiên là
chúng tôi không thể ở lại đó. Chúng tôi chèo thuyền ra biển và 5 ngày sau mới
đến Kiến An gần thành phố Hải Phòng. Chúng tôi thực sự bị kiệt sức vì đói và
mong kiếm được gì để ăn trên bờ rồi sẽ tìm đường trở vào Nam. Chúng tôi bị bắt ở
ngoài Kiến An vào ngày 20/8/1963. Họ dẫn giải về Hải Phòng và giam chúng tôi
trong nhà tù Trần Phú. Ở đó chúng tôi đã bị tra hỏi trong suốt 5 tháng trời. Sau
đó bị đưa ra toà, bị kết tội làm gián điệp và lĩnh án 20 năm tù lao động khổ
sai. Chúng tôi bị đưa đến trại Bất Bạt và sau đó lại đưa đến Yên Thọ giam chung
với các lính biệt kích khác. Trong vòng 19 năm tiếp theo là lao động và cải tạo
giáo dục. Không có gì khác.
Vào tháng 5/1963, Hội đồng tham mưu
trưởng liên quân chỉ thị cho đô đốc (Admiral) Felt phát triển kế hoạch yểm trợ
nhũng cuộc hành quân bí mật "Nam Việt Nam" thực hiện các hoạt động chống phá
miền Bắc. Vào tháng 6, ông ta chuyển bản kế hoạch 34 cho hội đồng tham mưu
trưởng liên quân. Bản kế hoạch dựa trên giả thuyết cho rằng việc tăng cường hành
quân bằng cách này cách khác có thể làm cho Bắc Việt Nam phải giảm bớt các hoạt
động quân sự ở miền Nam.
Colby vẫn đang vật lộn với chiến
dịch cài răng lược và đang bàn tính các cuộc hành quân phục vụ cho kế hoạch 34
khi mà lực lượng vũ trang An ninh Nhân dân Bắc Việt Nam phải đương đầu với nỗ
lực của CIA tăng cường hoạt động ra Bắc Việt Nam.
Lực lượng Công an vũ trang Nhân dân
đã từng biết đến các cuộc xâm nhập của các toán biệt kích bán quân sự vào mùa
mưa ở các vùng khác nhau của đất nước. Có lẽ không có gì làm ngạc nhiên trước
việc Washington bất ngờ tấn công miền Bắc, các toán của năm 1963 được thả xuống
trên các trục đường giao thông chính nhằm phá hoại đường vận chuyển vật dụng
bằng đường bộ và bằng đường sắt từ Trung Quốc qua Bắc Việt và vào căn cứ. Dưới
đây là đoạn viết về giai đoạn này:
"Vào đêm 4 tháng 6, ba toán được đưa
vào ba tỉnh khác nhau: một toán 5 người được đưa vào Lào Cai, toán 7 người vào
Yên Bái và toán 6 người xâm nhập vào phía Tây Bắc của vùng Uông Bí. Nhưng tất cả
đều bị bắt. Vào ngày 7 tháng 6 một toán xâm nhập vào Thanh Hoá và một toán khác
vào Ninh Bình. Cả 2 toán cũng đều bị bắt. Ngày 9 tháng 6 một toán xâm nhập vào
Hà Tĩnh và một toán vào Nghệ An. Cả 2 toán này cũng bị bắt.
Việc đưa ồ ạt các toán gián điệp đã
đặt lực lượng Công an Nhân dân vũ trang vào tình trạng báo động chiến đấu cấp 1,
và nhanh chóng chuyển sang tình trạng báo động cấp 3.
Tiếp theo vào ngày 3/7 một toán được
đưa vào tỉnh Hà Tĩnh và 1 toán khác xâm nhập vào một vùng cách không xa Yên Bái.
Tất cả các toán này đều bị bắt và đều được đưa tin trên đài phát thanh Hà Nội.
Qua thẩm vấn các lính biệt kích, người ta phát hiện ra rằng các toán này có
nhiệm vụ phá hoại và kiểm soát sự xâm nhập vào Lào qua các đường 217, 15, 7 và
8.
Vào ngày 12/8 một toán 2 người nhảy
dù xuống Lai Châu để hợp lực với toán REMUS ở miền Tây Bắc. Một trong những
người sống sót than phiền về số phận của họ như sau:
"…Tôi xung phong tham gia vào hoạt
động này năm 1961. Tôi là một thợ sửa chữa điện đài bậc trung trong quân đội và
được chuyển về Sài Gòn. Một người bạn tôi đã được tuyển mộ trước đó tên là Lữ
Thế Toàn cho tôi biết anh ta tham gia vào Sở khai thác địa hình. Công việc có vẻ
rất hấp dẫn. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chúng tôi còn trẻ và sẵn sàng đối đầu với
bất cứ việc gì.
Vì vậy tôi đã nộp đơn và chờ mãi mà
vẫn không có gì xảy ra. Sau đó vào năm 1962 một trong những người tuyển mộ tiếp
cận tôi. Đào Vĩnh Lộc, mà mọi người gọi là Mau. Họ cần tuyển thêm người và tôi
đoán tay nghề của tôi là người mà họ đang cần tìm. Cả 2 chúng tôi, Bế Ích Đàm và
tôi sống trong một căn hộ nhỏ ở phố Trầu Hưng Đạo. Cuối cùng họ nói rằng chúng
tôi sắp được đưa đi đào tạo thực hiện các nhiệm vụ phá hoại và bắt đầu theo một
chương trình đào tạo từng bước. Ban đầu là ở Thủ Đức, sau đó chuyển về Long
Thành. Căn cứ Long Thành vừa mới được xây dựng xong năm 1963 và thiếu tá Hưng
thực hiện chương trình huấn luyện cho chúng tôi trong một kho đạn cũ vừa sửa
lại.
Tôi biết đã có nhiều người được tung
ra Bắc nhưng chưa có ai quay trở về. Gia đình vẫn nhận được tiền lương của họ và
vẫn ngóng họ từng ngày. Đó chỉ là điều tự nhiên, tôi là một người dân tộc Thái
trắng ở Lai Châu và chú của tôi Diêu Chính Thạch đã tham gia xâm nhập trong toán
REMUS năm 1962, do đó tôi vẫn giữ quan hệ với gia đình chú ấy.
Vào một ngày viên sĩ quan hành quân
Đào Vĩnh Lộc nói rằng chúng tôi sắp lên đường làm nhiệm vụ và Ngô Thế Linh lần
lượt chỉ thị nhiệm vụ cho từng người. Cả hai chúng tôi sẽ nhảy dù xuống Lai Châu
để hỗ trợ cho toán REMUS. Họ bảo rằng chúng tôi không cần ám hiệu vì REMUS đã
báo cáo là mọi việc đều ổn nhưng họ cần thêm người. REMUS vừa gây dựng xong một
căn cứ và cần có người để tham gia vào việc phá hoại cầu và đường nên chúng tôi
được giao nhiệm vụ đó. Họ đưa chúng tôi vài ám tín hiệu riêng để nhận biết chắc
chắn người chúng tôi gặp là người của toán
REMUS, nhưng họ cũng bảo chúng tôi
là không có gì phải lo lắng cả.
Chúng tôi ra đi ngày 12/8 trên máy
bay vận tải C123 cùng với một phi hành đoàn người Đài Loan. Chúng tôi bay qua
khu vực đổ bộ thấy trên mặt đất có ánh đèn. Chúng tôi nhảy dù từ độ cao gần 1000
feet cùng với 4 thùng lớn. Trong thùng có chất nổ và thức ăn mà lúc ở Sài Gòn họ
đã cho biết.
Chúng tôi tiếp đất lúc 2 giờ sáng và
ở lại đó chờ sáng. Vào khoảng 8 giờ 30 sáng chúng tôi đi lòng vòng thăm dò thì
bị một số người mặc quần áo đen áp sát, trên vai họ có súng. Ý nghĩ đầu tiên của
tôi là họ có thể là người của REMUS nhưng tôi đã lầm. Khi anh ta tới gần tôi thì
giơ súng chĩa vào mặt tôi và bảo giơ 2 tay lên. Hoá ra anh ta là một Giám thị
trại giam của Công an vũ trang nhân dân cùng một vài dân quân địa phương đi tìm
chúng tôi. Thế là chúng tôi không bao giờ nhìn thấy bốn thùng hàng đi theo
nữa.
Họ giữ chúng tôi ở đó 3 ngày rồi
chuyển sang một trại có lính canh. Ở đây tôi gặp Diệu Chính Thạch người của toán
REMUS. Anh ta làm điện đài. Chúng tôi ở đó 1 tuần và được chuyển về nhà tù Thanh
Trì ngoại thành Hà Nội. Chúng tôi bị giữ tới năm 1969 và sau đó được chở đến
Phong Quang bằng đường thuỷ.
Tôi có 2 bản đồ định vị mà Ngô Thế
Linh đưa cho, một bản dự tính chuyển cho Diệu Chính Thạch trưởng toán REMUS. Bản
đồ bao gồm một khu vực rộng từ Điện Biên Phủ tới phía Đông dọc theo tuyến đường
41 nối liền với Tuần Giáo.
Tất cả cầu dọc theo tuyến đường dự
tính phải phá đều được đánh dấu bằng bút chì đỏ.
Ban đầu tôi không muốn nói gì cả.
Nhưng khi họ cho tôi gặp chú tôi và điều đầu tiên ông ta hỏi là: "Gia đình có
khoẻ không? Hàng tháng họ có nhận được lương hay không?" Tôi bảo chú rằng gia
đình vẫn khoẻ và vẫn nhận được lương đều.
Sau khi chúng tôi bị bắt, rõ ràng
việc tồn tại của các toán biệt kích là do cơ quan an ninh miền Bắc muốn tuyên
truyền cho mọi người biết về sự hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam. Chúng tôi
cũng là người Việt Nam nhưng cán bộ cơ quan An ninh lại gọi chúng tôi là lính
biệt kích Mỹ. Đó là cách nói để gắn sự liên hệ giữa người Mỹ với các cuộc hành
quân của chúng tôi chứ không phải là người Mỹ trực tiếp làm việc này. Thay vào
đó các cán bộ cố gắng nhấn mạnh thực tế là Việt Nam bị Mỹ xâm lược. Phần lớn
những người sống ở nông thôn trình độ thấp, không hiểu rộng, họ tin vào những gì
cán bộ bảo họ và điều đó giúp họ huy động được dân chúng, dẫu rằng chúng tôi
cũng đều là người thuộc các dân tộc ít người.
Sau đó
REMUS báo cáo thành công lớn nhất về Sài Gòn. Họ thông báo là đã gài mìn trên
một đoạn đường vào ngày 18/11.
Toán SWAN đổ bộ vào ngày 4/9, toán BULL đổ bộ
vào Hà Tĩnh ngày 7/10 và toán RUBY bị bắt ngay sau khi xâm nhập Hà Tĩnh vào cuối
tháng 12. RUBY cố gắng chạy trở lại miền Nam nhưng đã bị bắt gần tỉnh Quảng Trị.
Việc bắt các toán biệt kích đều được Hà Nội thông báo và cơ quan thông tấn của
nước ngoài đưa tin, được CIA thu lại một cách đầy đủ.
Suốt mùa thu, kế hoạch 34 phải ngừng
thực hiện. Tại trụ sở của CIA, Colby phải tuyên bố trì hoãn việc thực hiện kế
hoạch là do kết quả đàm phán giữa CIA và Lầu Năm góc về việc chuyển giao cuối
cùng các nỗ lực bán quân sự và tiếp tục kế hoạch 34. Colby cũng bị lôi kéo vào
quyết định của Washington là nên hay không nên tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm.
Quân bài sau chót được ném ra khi Washington thẳng thừng từ chối không tham gia
ngăn chặn những kẻ nổi dậy ở Sài Gòn làm đảo chính lật đổ Tổng thống Diệm vào
ngày 1/11.
Vào ngày 3/11 cả Diệm và em trai Ngô
Đình Nhu bị giết chết, số phận của Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu cũng vậy.
Trong vòng 2 tuần sau vụ ám sát Tổng thống Diệm, tướng Paul Harkins chỉ huy cơ
quan viện trợ quân sự Việt Nam (MACV) điện báo cho đô đốc Felt rằng "khí hậu
tốt" cho việc tiến hành các cuộc hành quân bí mật.
Vào cuối năm 1963. các nhà lập kế
hoạch tại nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh quốc gia, các nhân viên cơ quan Trợ
lý đặc biệt Chống nổi dậy và Các hoạt động đặc biệt (SACSA) ở văn phòng Bộ Quốc
phòng (OSD) tại Lầu Năm góc, các nhân viên CIA đáng ra phải nhận thức được khái
niệm các toán biệt kích người Việt giống như các toán biệt kích của tướng
Lansdale ở CuBa trong suốt mùa hè năm 1962 không mang lại kết quả gì. Từ những
kỳ vọng của Hà Nội, những vấn đề tồn tại chính là thời điểm và điều kiện sẽ thúc
đẩy Washington tiến hành tấn công ra Bắc Việt. Đối với Washington, câu trả lời
sẽ được tìm thấy ở "kế hoạch 34A". Bộ chỉ huy ở Thái Bình Dương đã thúc đẩy mạnh
mẽ các chiến dịch ném bom trong giai đoạn 2 của "Kế hoạch 34A!”. Trợ lý An ninh
Quốc gia của Tổng thống Mỹ là ông Mc George Bundy đã tích cực nghiên cứu kịch
bản “Kế hoạch 34A" để chiến dịch ném bom đã được chấp thuận sớm trợ giúp cho "Kế
hoạch 34A".
No comments:
Post a Comment